Thứ Ba, 19 tháng 2, 2019

Tô Ngọc Vân vẽ địa chủ, và viết về việc vẽ địa chủ

Tô Ngọc Vân vẽ địa chủ, và viết về việc vẽ địa chủ

Giao Blog


Trên báo Văn Nghệ s. 75 ra ngày 20. 06. 1955, có bài của Tô Ngọc Vân. Thật ra là đăng một bài viết cũ của Tô Ngọc Vân.


Tên bài như sau:

Ý kiến trí thức, văn nghệ sĩ tham gia phát động quần chúng: Tô Ngọc Vân : Vẽ địa chủ (bài viết 10/3/54).

Cụ Vân đã từ trần năm 1954, nên đúng như báo Văn Nghệ đã mở ngoặc rằng, bài viết 10/3/54. Trước bài này, thì có một bài tưởng nhớ Tô Ngọc Vân do Nguyễn Hữu Đang viết.

Tư liệu dẫn trên là theo kết quả tra cứu của Lại Nguyên Ân.

(ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ 1954 - 1958 Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM QUA BÁO CHÍ ĐƯƠNG THỜI)
Nguồn: Giao Blog - 04/10/2014



TÔ NGỌC VÂN viêt 1954:
VẼ ĐỊA CHỦ

FB LẠI NGUYÊN ÂN·
THỨ BA, 13 THÁNG 12, 2016

Đợt hai phát động quần chúng, tôi được đi tham gia. Đi để phục vụ nông dân đấu tranh và cũng để cải tạo mình trong nhiệm vụ đó. Vốn là chuyên môn họa nhưng làm công tác người đội viên đơn thuần của đội phát động. Khi đấu tranh đã thắng, đại hội liên hoan tổ chức, tôi mới có dịp sử dụng chuyên môn chung với mấy anh em cùng nghề, vẽ tranh triển lãm, diễn lại một vài khía cạnh qua quá trình tranh đấu.
Phần tôi có làm mấy bức họa. Riêng một bức được anh em nông dân khuyến khích. Sự khuyến khích này đã chuyển vào tâm thần tôi một khí hậu phấn khởi rồn rập. Những đề tài tôi tưởng tượng sáng tác trong phát động trước đây còn chập chờn mờ mỏng, thì nay bỗng vụt lên rõ rệt, thúc bách tôi đem màu sắc đẩy nó hiện hình trên tấm họa. Sư khuyến khích lại tô thắm, thêm duyên cho cái tình giữa người họa và anh em nông dân. Lòng tin ở sức phục vụ cho chuyên môn mình thấy cường tráng lắm.
Tôi công tác tại xã Ninh Dân, huyện Thanh Ba. Bức tranh tôi nói trên tả một cảnh đấu trường ở đấy trình bày đóng khung vào hai nhân vật: bủ cố nông đang đấu và tên địa chủ phản động gian ác Đỗ Văn Hiện cúi gầm, quỳ gục dưới mắt bủ. Cảnh này đã đập vào xúc cảm tôi cực kỳ mạnh. Thằng Hiện, tôi nhìn chỉ có phảng phất bóng dáng con người. Đầu nó cúi, cái sọ trơn trọc hung hãn, hai tai nhọn hoắt như tai ác thú, quai hàm nó rộng bạnh ra, cánh tay thả xuống dài bằng chân, đôi mắt đỏ ngầu máu. Tâm hồn thú vật của nó tiết tỏa khắp thân hình.
Mãi hôm đấu tôi mới thấy nó, nhưng thực thì tôi đã “biết” nó từ lúc nông dân được phát động, đã chứng kiến con người thú vật ấy hiện nguyên hình dần dần, mỗi lúc một rõ thêm lên, qua những đêm và ngày tố khổ của anh em bần cố. Cánh tay dài kia đã quặp chiếc búa tạ đuổi theo chị người làm bị nó định hiếp nhưng vùng chạy được, thằng Hiện ném như thế nào tôi đã rõ. Miệng nó há ra thế nào để nốc từng lít rượu, quai hàm nó bạnh ra sao để hốc từng cân thịt ăn cướp của nông dân để rồi phun ra những giọng gian ác, phản động đối với kháng chiến, anh em bần cố đã chi tiết vẽ hộ tôi cả.
Rồi nhìn cánh đồng bao la, đồi chè liên tiếp thuộc nhà nó, tôi lại nhớ đến những mưu mô mánh khóe lươn lẹo thằng Hiện đã dùng để chiếm đoạt. Rồi khi ăn khi nằm cùng anh em bần cố mà quanh năm chỉ ngày tết mới được bữa cơm không độn, tôi lại càng nhìn thấy bàn tay tàn nhẫn của nó. Hình thù thằng Hiện, nhờ vậy, nhờ sự cảm thấy một phần cùng cực của anh em mà trở thành cụ thể trong óc tôi, và đêm hôm đấu, thoạt tiên trông thấy nó, tôi sửng sốt vì nó giống một cách lạ lùng với thằng Hiện tôi tưởng tượng.
Sự thống nhất này đã giúp tôi ghi lại nhân vật địa chủ được một phần nào giống. Anh em nông dân nhận thấy thế. Mới một phần nào thôi. Đường đi đến giống hoàn toàn, diễn thằng địch hay diễn anh em nông dân cũng vậy, giống được hoàn toàn, về phần tôi thấy mình còn phải qua nhiều cố gắng gian khổ.
Câu chuyện GIỐNG là tất cả một vấn đề nó không phải công việc ghi chép hình thức bên ngoài nhân vật thôi đâu. Không thông cảm với anh em nông dân nổi thì không “truyền thần” anh em được, mà cả thằng địch cũng không thể giống nốt. Và muốn thông cảm lại phải giải quyết một dãy vấn đề do bản chất tiểu tư sản nghệ sĩ, bị văn hóa đế quốc đầu độc của mình gây ra. Vấn đề của câu chuyện GIỐNG này, tôi cũng kết luận như các bạn trước mọi vấn đề khó khăn rằng đó là một vấn đề tư tưởng.
Nhưng khó khăn gì mà chẳng vượt. Bác bảo: có tín tâm quyết tâm là tất thắng. Anh em nông dân đã truyền cho tôi một lòng tin cường tráng. Và tôi đã quyết tâm.
10-3-1954
TÔ NGỌC VÂN
Nguồn: tạp chí VĂN NGHỆ, [việt bắc] s. 3 (tháng Ba 1954)
[Rút từ Sưu tập VĂN NGHỆ 1948-1954, tập 7: 1954, Hữu Nhuận sưu tầm, Lại Nguyên Ân biên soạn, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 2005, tr. 160-161]
GHI CHÚ: Tô Ngọc Vân hy sinh ngày 17/6/1954, chừng 03 tháng sau khi đăng bài này.

FB LẠI NGUYÊN ÂN - THỨ BA, 13 THÁNG 12, 2016
Khac Hoa La
Trong Hội họa, ông này lúc đầu "cãi" Trường Chinh, nhưng sau nhanh nhẩu đặt nền tảng cho HTXHCN, lấy "ca", "hịch", "thệ" làm phương thức diễn ngôn mà. Cứ xem "hà nội vùng đứng lên", Bác Hồ làm việc trong Bắc bộ phủ là thấy ngay thôi. Xin bác chia sẻ, giữ làm tư liệu.
Chu Văn Sơn
Cũng tội nghiệp! Hồi ấy nhận thức lý luận chắc không đơn giản chỉ là chân lý với ngụy lý mà là chân lý với quyền lực. Tiếc là, từ khuất phục quyền lực mà lí luận mỹ học đã đi đến chỗ đổi màu và đổi máu một cách hăng hái như thế này. Ngụy lý lại được cả tin là chân lý đến thế thì thương thật. Tiếc cho những nghệ sĩ chân tài đã bị đánh hỏng và cũng tự đánh hỏng nghệ thuật của mình !
Phạm Thu Huơng
Thời đó các cụ bị ảnh hưởng của mấy đợt Chỉnh huấn mà. Thảm lắm những Ng. Tuân, Thế Lữ, Tô Ngọc Vân, Ng. Công Hoan...
Khac Hoa La
Giờ so với hồi ấy, phỏng đã có gì hơn! Cứ xem người ta đấu tố các ứng cử tự viên tự do vào quốc hội, cứ xem các đồng chí văn nghệ sĩ Hà Nội công khai hoặc lặng lẽ tán thành chủ trương gạt đồng chí "Nguyên bạc" khỏi chức Hội trưởng, thì thấy nó vẫn giống y sì đấu tố địa chủ năm xưa thôi.
Phạm Thu Huơng
Phong trào sám hối của các văn nghệ sĩ năm 1951 buộc họ fải viết như vậy nếu vẫn muốn đứng trong đội ngũ. Nên có thể hiểu cho các cụ.
Lại Nguyên Ân
Theo tôi, tài liệu này đáng chú ý về mấy việc: 1/ Sự thành thực tin vào quan điểm giai cấp của nghệ sĩ; 2/ Sự thành thực đem tài năng nghệ thuật thể hiện niềm tin kể trên, đây là lý do để có những tác phẩm hội họa như của ông này và một số người khác. Còn thì, với thời gian, đã lộ ra rằng quan điểm kia là phi nhân, sắt máu ra sao, thì nghệ sĩ ấy không kịp thấy, vì ông chết khá sớm (không sống đến lúc phải sám hối hay cãi vã về sám hối). Tác phẩm nghệ thuật sản sinh ra hồi ấy, không phải bây giờ người ta vứt đi; cứ xem giới sưu tầm Tây sang đây tìm tranh cổ động VN, hệ thống hóa nó... thì biết. Chỉ cái quan niệm (phi nhân bản) xưa nhìn dưới ánh sáng tiến bộ bây giờ là tỏ ra lố bịch, đáng tởm mà thôi.
Nguyễn Quang Thân
"Thằng Hiện, tôi nhìn chỉ có phảng phất bóng dáng con người. Đầu nó cúi, cái sọ trơn trọc hung hãn, hai tai nhọn hoắt như tai ác thú, quai hàm nó rộng bạnh ra, cánh tay thả xuống dài bằng chân, đôi mắt đỏ ngầu máu. Tâm hồn thú vật của nó tiết tỏa khắp thân hình."
Theo các nhà động vật học, nếu con chó sói viết văn tả người nó cũng viết y chang như đoạn văn trên.
Phạm Thu Huơng
Văn nghệ sĩ phê bình và tự phê bình năm 51 mà chú, sau đó mới phát động CCRĐ và TNV viết bài này năm 54 mà. Truớc khi CCRĐ các văn nghệ sĩ đã qua đợt học tập phát động rồi nên khó có chuyện họ tin vào đấu tranh giai cấp một cách hoàn toàn thành thực và khách quan.
Vũ Thư Hiên
Thời bấy giờ nó thế. Nên có cái nhìn bao dung với những lầm lạc chân thật, những lời nói lên gân lập trường trong cơn lên đồng tập thể. Có người lầm thật sự, có người giả lên gân lập trường để được tồn tại. Chính tôi, trong chỉnh huấn cũng phải bịa ra vài khuyết điểm về lập trường giai cấp không hề có, để được yên thân ra về. Nhìn lại mà tởm cái thời không người nào có quyền được là mình.
Nguyễn Huệ Chi
Viết như doạn trích của Nguyễn Quang Thân phản ánh một sự thực là sự bối rối trong vô thức vốn không nhận diện ra "khuôn mặt thú" của "thằng Hiện" mà chỉ là tiếp nhận qua những lời tố của nông dân. Nhưng tâm của người viết thì "thành". "Thành" là bởi thuở bấy giờ người như TNV vẫn tin ở lãnh đạo, đúng hơn là "chưa nhìn rõ mặt". Đó là chỗ khác cơ bản với hôm nay.
Khac Hoa La
Anh ơi, cách nói "ngày ấy nghệ sĩ tuy nhìn đời bằng cái nhìn phi nhân, vô luân, nhưng "tâm thành" sẽ làm mờ đi tấn bi hài kịch của cả một thời đại - thời đại "đám đông đứng về phía lầm lạc", ngu muội, cả xã hội "lên đồng tập thể bằng lời nói" (giờ, lại lên đồng tập thể theo tiếng xủng xẻng của đồng tiền).
Nguyễn Huệ Chi
Khac Hoa La nói đúng. Nhưng cũng phải nhận ra một nét khác biệt: Cơn lên đồng tập thể thuở ấy, phần lớn trí thức đều mê - nghĩa là lên đồng thật. Còn bây giờ thì lên đồng giả, kẻ nào cũng rất tỉnh, giống như các bà đồng Kinh Kỳ mà anh đã xem chui mấy buổi hồi cuối những năm 80.
Khac Hoa La Vâng. "lên đồng bằng lời" bây giờ là giả, vì cánh này bận hầu đồng thật ở một đám khác, nơi tiền và quyền giữ vai đồng cô.
Nguyễn Quang Thân
Anh Nguyễn Huệ Chi ơi, ông Hs này có chức, những ông khác như cụ NP Chánh, ông Sáng v. v không thấy viết thế.
Khac Hoa La
Mỗi vị có đều có một chút dấu ấn của thời đó, anh Nguyễn Quang Thân ạ. Cụ Chánh, cụ Sáng không vẽ tranh theo thể "Hịch văn" (tố cáo, kêu gọi), thì vẽ những bức theo thể "ca thi" (Ơn đảng, ơn Bác). Anh xem "Kết nạp đảng trên Điện Biên" của cụ Sáng:
Và "Bữa cơm ngày mùa thắng lợi" của cụ Chánh đây
Người ta bảo, chỉ có "Con nghé quả thực" của cụ Nghiêm là có ý khác thôi
...các cụ này, nhất là cụ Nghiêm, hình như đều "nuốt nước mắt vào trong" mà theo thời anh ạ.
Nguyễn Huệ Chi
Nguyễn Quang Thân Cụ Chánh mà đến bây giờ vẫn chưa có tên đường sao? Còn TNV thì qua bài viết tranh luận với ĐTM và TC về nghệ thuật vị nghệ thuật năm 1948 tôi vẫn thấy ông ấy rất thành thật. Những bức tranh ông ấy vẽ về quang cảnh trên đường giặc Pháp đi qua, vẽ các cô gái khỏa thân, hình như khoảng 1950 thì phải, tôi cảm thấy ông ấy vẫn thích thỏa mãn cái đẹp cơ thể phụ nữ hơn là tố cáo tội ác của giặc. Cho nên thấy ông ấy chuyển biến tư tưởng vào thời CCRĐ tôi cứ nghĩ ông biến chuyển bằng cái "tâm thành" chứ không giả tạo, tất nhiên đó là bi kịch của người nghệ sĩ và trí thức. Ông bác tôi, khi nhìn thấy việc bắn bà NTN, nhất quyết xin thôi chức Thứ trưởng Bộ Y tế. Họ không cho về, ông vẫn xin về bằng được, đến nỗi ông PVĐ lấy làm ngạc nhiên, trực tiếp ghi vào lý lich, khen đấy là một người hoàn toàn không màng danh lợi. Rồi ông ấy rủ cả bố tôi và chú tôi cùng về (bố tôi và chú tôi lúc ấy đã làm khá chứ không nhỏ nữa, bố tôi là Chánh văn phòng LK ủy IV, nếu không về thì chắc sau hòa bình lên ngay Vụ trưởng hay có thể hơn). Vậy mà họ cùng nhau về hết. Và điều cỏn lạ hơn là tuy về nhưng khoảng 1961, tôi có hỏi ông bác thì ông nói ông vẫn tin ở Cụ Hồ, cụ không có tội trong CCRĐ. Bố tôi và chú tôi chắc cũng không nghĩ khác, tuy đều bị CCRĐ làm cho liểng xiểng. Cho nên điều anh nói vì Tô Ngọc Vân có chức nên động cơ tư tưởng có khác mấy họa sĩ khác, tôi chưa biết cái chức của Tô Ngọc Vân trong KC chống Pháp thì được những quyền lợi gì, nhưng tôi thầm đoán, chắc cũng chưa ai bám chức đến mất nhân cách như ngày nay. Có thể tôi sai vì kinh nghiệm sống thực tế không nhiều bằng anh, tôi là kẻ xuất thân từ nhà trướng, không tiếp cận thực tế nhiều mặt như anh, Nguyễn Quang Thân.
Phạm Thu Huơng
Trong hoàn cảnh lúc ấy nếu nói khác viết khác số đông chắc chắn ko được yên thân đâu. Bao nhiêu văn nghệ sĩ từ Hoài Thanh, Ng. Tuân, Ng. Công Hoan đến Ng. Văn Tỵ,, Ng. Xuân Khóat, Lê Yên, Ng. Sáng... đều fải làm một cuộc "tổng kiểm tra tư tưởng" của mình đấy. Các bác xem lại Văn nghệ số 41_42-43/1951 sẽ rõ. Bây h chúng ta nhìn lại có thể phê phán họ nhưng vào hoàn cảnh ấy họ ko thể làm khác được.
AB Bùi
Một thời kinh hoàng , " Nhất đội nhì giời " thời mà mọi giá trị về tư tưởng , văn hoá ,giáo duc ..... của xã hội VN trải qua ngàn đời đã bị đập bỏ và tung hê tất cả một cách phũ phàng nhất . chính vì sứ tàn khốc của cuộc ccrđ ,được các nhà lãnh đạo thời ây ví là cuộc CM long trời lơ đất .,nên không có một cá nhân nào không giám không tham gia và ủng hộ .Tôi thiết nghĩ đưng trách Hs Tô ngọc Vân tác giả của kiệt tác Thiếu nữ bên hoa huệ .
Trần Đình Sử
Thời ấy đâu còn ý kiến cá nhân. Cá nhân bị thủ tieu.
...





Văn nghệ Thứ Bảy : Xem tranh kí họa bút sắt của Tô Ngọc Vân về gia đình địa chủ Đỗ Văn Hiện


Giao Blog - 13/09/2014
"thằng Đỗ Văn Hiện", hay "địa chủ Hiện", là nguyên ngữ mà Tô Ngọc Vân đã dùng, ghi ngay trên tranh.


Thời nhỏ chúng tôi đọc và học theo sách dạy vẽ của Tô Ngọc Vân (1906-1954), trong đó có một cuốn tựa như là Bước đầu học vẽ*. Vẫn nhớ những bức kí họa bút sắt như "Lao Kai giải phóng" in trong sách. Trong tưởng tượng thời đó của chúng tôi, Tô Ngọc Vân là người gầy gầy manh mảnh, có lẽ là dí dỏm. Sau này, lớn lên, gặp những người con trai của ông, thì nhẩm nghĩ: giống giống với tưởng tưởng trước đây về người cha.

Hôm nay, xem một ít tranh của Tô Ngọc Vân vẽ vào tháng 9 năm 1953, theo đúng lối kí họa bút sắt mà chúng tôi đã học theo sách của ông. Ông vẽ về gia đình địa chủ Hiện.

Tháng 9 năm 1953 là thời điểm trước khi Luật Cải cách Ruộng đất được ban hành (ban hành vào tháng 12 cùng năm).

Tranh lấy về từ một bài báo của Phan Cẩm Thượng vừa lên bên tờ Tuổi trẻ. Nguồn gốc các tranh này là lấy ra từ cuốn Tô Ngọc Vân - tấm gương phản chiếu xã hội Việt Nam, 1906-1954 (NXB Tri Thức, 2014).

1. Bức một
Nhà thờ Ninh Dân và nhà địa chủ Hiện, ngày 26-9-1953. Ký họa bút sắt trên giấy.


2. Bức hai
Đại hôi nông dân xã Ninh Dân, ngày 20-9-1953, chuẩn bị cho cải cách ruộng đất. Bút sắt và mầu nước trên giấy


3. Bức ba
Địa chủ Đỗ Văn Hiện




Phan Cẩm Thượng viết:
"Tô Ngọc Vân (1906-1954) tham gia vẽ trong Cải cách ruộng đất ở hai tỉnh Thái Nguyên và Phú Thọ trong năm 1953, đặc biệt là xã Ninh Dân, huyện Thanh Ba (Phú Thọ), nơi ông vẽ từng chi tiết của đời sống nông dân và địa chủ đương thời, thậm chí còn chi tiết hơn cả một phóng viên chụp ảnh.

Bộ tranh này có 54 bức hiện thuộc về nhà sưu tập người Thái Tira Vanictheeranont."

Thiên lý 11:23 14 tháng 9, 2014
Cuốn sách "Bước đầu học vẽ" không phải do Tô Ngọc Vân soạn. Tác giả là Hoạ sĩ Nguyễn Văn Tỵ.


Khi hành lang biên giới được giải phóng, năm 1951, giới Văn nghệ kháng chiến đã tổ chức một triển lãm mỹ thuật tại Lào Cai, Tô Ngọc Vân lên tham dự và tổ chức. Ông vẽ một số ký họa về đời sống Lào Cai, Lạng Sơn và đặc biệt là những người chèo đò trên sông gần biên giới. Năm 1952 - 1953, Tô Ngọc Vân dành nhiều thời gian vẽ các vùng nông thôn Phú Thọ và Thái Nguyên, chân dung người nông dân, phong cảnh làng quê và lao động sản xuất tập thể, theo hình thức tổ đổi công. Trong đó nông thôn Minh Cầu, Thái Nguyên được họa sỹ dành cho những bức họa có chiều sâu. Có thể nói lúc này, chàng họa sỹ của phái Tự lực văn đoàn hoàn toàn biến mất, thay vì một họa sỹ nông dân thuần túy lột tả được hết dáng vẻ tính cách người nông dân Việt Nam cùng số phận của họ.

Năm 1953, cuộc Cải cách ruộng đất khốc liệt bắt đầu được tiến hành ở một số vùng nông thôn do Cách mạng quản lý. Tô Ngọc Vân đi vẽ cho Cải cách ruộng đất ở một số vùng Phú Thọ và Thái Nguyên, đặc biệt ở Ninh Dân (Phú Thọ). Có lẽ ông được phân công vẽ theo kiểu như một nhà nhiếp ảnh chụp tư liệu, vì những bản vẽ rất kỹ lưỡng, từ trong ra ngoài một căn nhà địa chủ, và vẽ bổ như đạc biểu kiến trúc. Ông cũng vẽ tất cả các buổi họp và đấu tố thường thấy trong Cải cách. Đây là bộ ký họa sinh động chân thực hiếm có, mà qua đó Tô Ngọc Vân nhìn thấy chân tướng và thân phận của người nông dân Việt Nam.

Xem một ít tranh của Tô Ngọc Vân vẽ về gia đình địa chủ Hiện vào tháng 9 năm 1953, theo đúng lối kí họa bút sắt của ông, "thằng Đỗ Văn Hiện", hay "địa chủ Hiện", là nguyên ngữ mà Tô Ngọc Vân đã dùng, ghi ngay trên tranh.
https://www.facebook.com/GiaiDocThongTin/photos/a.299415623578878/299415656912208/?type=1&theater

0 comments:

Con trâu quả thực (Tranh ký họa màu nước - 1954)

Con trâu quả thực (ký họa màu nước - 1954)

Tô Ngọc Vân


Nguồn: Bảo tàng Tô Ngọc Vân - 2022









Mời xem bài viết:


Từ cũ: nhân bức kí họa "Con trâu quả thực" của Tô Ngọc Vân (1950s)

Giao


Hôm trước, đã xem một ít tranh kí họa của Tô Ngọc Vân về nhà "thằng Đỗ Văn Hiện" ở vùng Việt Bắc những năm 1953-1954 (xem lại ở đây).

Trong loạt tranh đó, có một bức nữa, được ghi tiêu đề bởi chính họa sĩ, là Con trâu quả thực.
Bức này được giới thiệu (chẳng hạn ở đây),
nhưng tựa như là bị che mất dòng tự ghi của họa sĩ


Từ cũ đã lâu không còn được dùng trong tiếng Việt nữa, là "quả thực". Bức kí họa của Tô Ngọc Vân, về mặt ngôn ngữ học, là một tư liệu trực quan sinh động. Lại mang niên đại lịch sử tường minh.

Về mặt từ nguyên, tức nguồn gốc từ, hiện cũng còn chưa rõ "quả thực" có gốc rễ từ đâu. Là từ ngoại lại hoàn toàn (chỉ đem phiên ra âm Hán Việt), hay là tự tạo mới trên cở sở ghép các bộ phận ngoại lai.

Cũng kính nhờ bác Hoàng Tuấn Công (bên Tuấn Công thư phòng) tra giúp xem các cụ Nguyễn Lân, Nguyễn Cừ, Nguyễn Công Lý có đưa vào các bộ từ điển mà bác đang xem xét hay không. Xin nhờ bác, là vì, tôi vốn không có các bộ sách đó, chưa một lần sử dụng chúng.

Hoàng Tuấn Công 17:13 18 tháng 9, 2014
Giao đã có lời nhờ, HTC xin chép ra mấy dòng ban đầu thế này:
Tra từ điển Tàu thấy "quả thực" (thật) chỉ có kết hợp từ 果實 ý chỉ bộ phận thực chất, có thể sử dụng được của hoa quả. Từ điển ta, "Từ điển tiếng Việt" của Hoàng Phê không ghi nhận từ "quả thực". "Từ điển gốc và nghĩa từ Việt thông dụng"-Vũ Xuân Thái: Quả thực: đúng sự thực. "Việt Nam tự điển" (Hội khai trí tiến đức-Hà Nội) không thấy ghi nhận.
Từ điển Nguyễn Lân (2 cuốn: Từ điển từ và ngữ Hán Việt và Từ điển từ và ngữ Việt Nam) giảng như sau: "Kết quả về vật chất của một cuộc đấu tranh: Trong cải cách ruộng đất, nông dân được chia quả thực". Có lẽ, từ "quả thực" mới chỉ được sinh ra trong cải cách ruộng đất ? Giải thích như NL là đúng với nghĩa được dùng trong thực tế của "quả thực". (Lưu ý: trong Hồi ký giáo dục của mình, NL tiết lộ từng tham gia đội cải cách ruộng đất, trước khi sang dạy bên học xá Trung Quốc)

Nói thêm, cách đây khoảng hơn 10 năm đã có một sinh viên trường Nhạc họa hỏi mình về từ "Quả thực" trong lời đề "Con trâu quả thực" tranh ký họa của Tô Ngọc Vân. Đây là bức ký họa đẹp, thường được các trường Họa xem là mẫu mực, giáo khoa để sinh viên học tập. Một thời nó cũng được xem là nét đẹp và thành quả của cuộc cải cách ruộng đất được văn nghệ sĩ phản ánh một cách phong phú qua nhiều thể loại sáng tác.
Ngọc Hiệp Phạm 18:20 19 tháng 9, 2014
Tôi sang nhà bác HTC đọc được câu hỏi của chủ nhà sang xem và mạn phép góp thêm ý:
Theo Từ điển từ Hán-Việt (Lại Cao Nguyên chủ biên, NXB Khoa Học Xã Hội-2007, có 2 từ Quả thực:

1/- Quả thực (果 實): hẳn, chắc, quyết, đúng là. Chữ quả 果 thuộc bộ Mộc.

2/- Quả thực (菓 實): kết quả vật chất của một cuộc đấu tranh. Chữ quả 菓 thuộc bộ Thảo.

Từ điển Tiếng Việt (Văn Tân chủ biên - NXB Khoa Học Xã Hội- 1967) ghi rõ hơn, cũng có 2 nghĩa:

1/- Quả thực: Thực ra là.

2/- Quả thực: kết quả vật chất của một cuộc đấu tranh: sau khi đấu tranh với địa chủ, nông dân chia quả thực.

Chữ "quả thực" này tương tự như từ "chiến lợi phẩm".

Như vậy nếu bức tranh bên trên của họa sỹ Tô Ngọc Vân được ghi là "Con trâu quả thực" được vẽ vào thập niên 1950, thì có lẽ con trâu này là con trâu được chia phần sau khi tịch thu của địa chủ trong cải cách ruộng đất. Một vấn đề "nhạy cảm" đang nóng hổi trên mạng bây giờ.

Nguồn: Giao Blog - 18/09/2014


Kí họa của Tô Ngọc Vân, sẽ có thể được đọc ra một ý nghĩa nào đó nữa, nếu đọc liên thông với nhật kí Trần Dần khoảng giữa thập niên 1950, ở miền Bắc, như sau:
Chia quả thực:
Căm thù địa chủ thì có, nhưng thương yêu giai cấp thì chưa có (người ta bảo vì chưa được học). Nên khi chia quả thực thì bà con tranh giành nhau í ỏm. Cán bộ lúng túng mới nghĩ ra những cái mưu thật là lúng túng.
Chia nồi: Cán bộ bịt mắt bắt dê, nhân dân gọi tên bà Noã chẳng hạn thì cán bộ chỉ vào đống nồi, phải cái nào thì bà Noã phải nhận cái đấy.
Chia cuốc: Cán bộ lấy vải trùm lên đống cuốc chỉ còn thòi cái cán ra, ai cũng chỉ trông thấy có cán, lấy cái nào ra thì là lấy cái ấy, không được chê cùn chê mẻ gì nữa.
Kết quả: Người nghèo được cái nồi thủng, cái cuốc mẻ. Người khá hơn được cái nồi tốt, cái cuốc sắc. Cuộc đời trớ trêu hay là cái mưu của cán bộ kia trớ trêu?
Theo bản chép ra mạng của Phạm Thị Hoài http://www.procontra.asia/?p=4860






Tranh con trâu với năm Sửu

Theo ND
Con trâu là nguồn cảm hứng giàu hình tượng trong thơ ca, văn học, nghệ thuật Việt Nam, trong đó có hội họa. Vào những ngày Tết từ bắc chí nam, nhiều nơi đều có phong trào sáng tác và in tranh con trâu mà cụ thể là các làng nghề tranh dân gian.



Sau này, tranh con trâu được các họa sĩ Việt Nam hiện đại thể hiện với nhiều loại hình khác nhau và dưới nhiều chất liệu như: sơn dầu, bột mầu, lụa, sơn khắc, v.v. Nhiều bức tranh với đề tài ấm no, hạnh phúc như Ðược mùa của họa sĩ Tạ Phúc Bình hay Con trâu quả thực của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Bức tranh này là một ký họa với gam mầu ấm áp, trẻ trung, bố cục chặt chẽ, hoàn chỉnh rất sống động và được in phát hành nhiều vào những ngày Tết Nguyên đán trong những năm 60 của thế kỷ trước. Thời kỳ chống đế quốc Mỹ, tranh con trâu được các họa sĩ thể hiện rất sinh động, tay cày, tay súng mà người nông dân và trâu là chủ thể.

Nói đến tranh Tết vẽ con trâu thì các nghệ nhân dân gian Việt Nam phản ánh một cách bộc bạch, nhưng thầm kín rất sâu sắc cả về nghĩa đen và nghĩa bóng, vừa mang tính hiện thực, vừa đậm tính nhân văn. Ở Việt Nam hình tượng con trâu không những là sức lao động mà còn là bạn đồng hành với con người trong sản xuất, trong lễ hội tâm linh. Vì vậy tranh con trâu trang trí trong những ngày Tết đã trở thành phổ biến và cũng là sản phẩm văn hóa rất linh thiêng, được trân trọng mỗi khi Tết đến, Xuân về.

Năm con trâu đã đến, tranh Tết vẽ con trâu sẽ không những là nguồn cảm hứng của các họa sĩ, các nghệ nhân làng nghề trong dân gian mà còn góp phần làm cầu nối giữa các nền văn hóa quốc tế trong thời kỳ mở cửa.

Theo ND


Nguồn: Báo điện tử Tổ Quốc - 01/01/2009.








Sự chuyển đổi ý niệm về hình tượng con trâu trong hội hoạ Việt Nam

Nguyễn Anh Tuấn (Thư viện NVH)


Con trâu đứng thứ hai trong thập nhị chi và là một trong những con giáp gắn bó mật thiết với đời sống nông nghiệp và nông thôn, trở thành “đầu cơ nghiệp” của người nông dân xưa và có thể cả hôm nay. Nó là một tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng trong đời sống nông nghiệp nên việc cấm giết mổ trâu bò đã từng bị cấm và phạt tội nặng từ thời Lý (1009-1225) như nguồn sử liệu vào năm 1123 đã ghi rõ. Không khó để nhận ra, con trâu đã bước vào lịch sử và văn hoá Việt Nam từ thủa rất sớm với hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh cưỡi trâu cầm cờ lau tập trận hay trong thơ ca, nhạc và nghệ thuật tạo hình.
Tuy nhiên, ngày nay hình ảnh con trâu gắn với đời sống nông thôn và nông dân dường như đang dần vắng bóng trong văn hoá nghệ thuật. Trong một cảm luận nghệ thuật mới đầu năm Tân Sửu, chúng tôi muốn nói tới hình ảnh con trâu trong tranh với một khoảng lịch sử hơn trăm năm đầy biến động, một cái nhìn từ tranh dân gian tới hiện đại và đương thời. Cảm thức về con trâu đã biến đổi một cách sống động và giàu thẩm mỹ hay đó còn là sự chuyển đổi ý thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân.


Trước năm 1945 hình ảnh con trâu trong văn hoá nghệ thuật Việt Nam thật chân thực thân quen như thể một người bạn hay người thân của các gia đình nông dân và nông thôn Việt.
Nếu vẻ đẹp của làng quê miền Bắc với mái đình giếng nước gốc đa thì con trâu đầm giữa trưa hè oi ả, cảnh chăn trâu và đàn trâu lững thững trở về trong những dáng chiều,… là những hình ảnh nên thơ và yên bình. Người nông dân xưa coi trâu như một người bạn nên mới có những giọng tâm tình thủ thỉ “trâu ơi ta bảo trâu này, trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta” hay những ví von trong thơ ca cũng gắn với trâu như một thành viên của gia đình hạnh phúc “trên đồng cạn xuống ruộng sâu, trồng cầy vợ cấy con trâu đi bừa”. Bởi thế mỗi người khi đi xa quê hương, chúng ta không khỏi những bồi hồi khi nhớ “cùng một bến sông con trâu đằm sóng vỗ”.
Con trâu đã bước ra từ trong những huyền tích với Cao Biền về chùa Kim Ngưu (Tiên Du, Bắc Ninh) hay núi Long Đọi (Duy Tiên, Hà Nam) cùng sông Kim Ngưu và Hồ Tây ngày nay.
Không những thế, con trâu còn gắn với nhiều lễ hội trên mọi miền tổ quốc như lễ hội chọi trâu Đồ Sơn hay lễ Tịch điền đầu năm của các vương triều phong kiến…
Ngoài ra phải kể tới hình tượng con trâu trong điêu khắc cổ Việt Nam như một cặp tượng trâu lớn gần bằng thực nằm trên toà sen ở cấp nền ba chùa Phật Tích (Bắc Ninh), tượng trâu nằm trên bệ liền khối ở lăng vua Lê Hiến Tông (Quảng Ninh) và chạm khắc cảnh trâu chọi nhau ở đình Liên Hiệp (Hà Nội)…
Thêm vào đó có thể nói tới bộ tranh Phật giáo Thập mục ngưu đồ có nguồn gốc bắt đầu từ thời Nam Tống (1127-1279) lấy hình ảnh ẩn dụ cảnh chăn trâu cũng giống như việc chăn tâm / thân.
Ở nước ta bộ tranh 10 cảnh chăn trâu hiện còn được biết là vào năm 1721 do thiền sư Thích Quảng Trí luận giải. Năm 1972 bộ tranh Thập mục ngưu đồ này được Nhà xuất bản An Tiêm ấn hành bởi Trúc Thiên sưu tầm. Bộ tranh Thiền này lấy trâu tượng trưng cho năm giác quan (ngũ trần / căn): mắt, mũi, miệng, tai và da thịt; mục đồng là thân và hành động chăn là ý thức / tỉnh thức (chánh niệm). Hình ảnh mục đồng và trâu không thể tách rời khỏi nhau nương tựa để cuối cùng là trâu thuần còn người thì an nhiên “thõng tay vào chợ”.
Hơn hết phải nói tới nghệ thuật tạo hình tranh dân gian Việt Nam như tranh Đông Hồ và Hàng Trống, có thể thấy ở đây hình ảnh trâu và người nông dân trong rất nhiều hoạt cảnh, lúc bận bịu cày bừa khi an nhiên nghỉ ngơi bên nhau. Đời sống tự tại của người nông dân mang tới cảm giác bình thản dường như phảng phất mùi vị của chất thiền trong những bức tranh này.

Canh điền nhi thực (Tranh Hàng Trống)



Nông sự khai cơ (Tranh Hàng Trống)



Bát dân an lạc (Tranh dân gian Đông Hồ)



Canh điền sáng nghiệp (Tranh Hàng Trống)



Nhiều bức tranh vẽ cảnh mục tử chăn trâu thổi sáo, đọc sách hay thả diều gợi nhắc vẻ thanh thản ung dung như cuộc sống bình yên của nông thôn Việt Nam

Chăn trâu thổi sáo (Tranh dân gian Đông Hồ)



Chăn trâu thả diều (Tranh dân gian Đông Hồ)



Hình ảnh con trâu trong một tâm thức ban đầu còn được diễn tả trong nhiều tác phẩm của hội hoạ hiện đại, qua các tác phẩm sơn mài của Phạm Hậu như Mục đồng Bắc kỳ (1931) hay Giáng sinh của Nguyễn Gia Trí (1941), Hoàng Tích Chù và Nguyễn Tiến Chung (1942-1943)…

Mục đồng Bắc Kỳ. Phạm Hậu, sơn mài, 1931.



Giáng sinh. Nguyễn Gia Trí, sơn mài, 1941.



Vẻ bình yên của một nông thôn Việt Nam với nhà tranh gốc mít, cây đa bến nước mái đình,… đã dần thay đổi qua 9 năm trường kháng chiến chống Pháp và 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Con trâu từ một người bạn người thân là tư liệu sản xuất quan trọng nay thành phương tiện sản xuất cần thiết cho một thời kỳ mới. Dấu ấn chuyển đổi này đã được các hoạ sĩ thời kỳ hiện đại khắc hoạ một cách rõ nét với một cách nhìn hiện thực sinh động.
Vào năm 1953 hoạ sĩ Tô Ngọc Vân đã vẽ bức Con trâu quả thực thể hiện một người nông dân vui sướng nhận được phần chia của mình, con trâu được vẽ trong một dáng vẻ nhìn chéo lại phía sau như đang chần chờ và mong ngóng điều gì.

Con trâu quả thực. Tô Ngọc Vân, màu nước, 1954.



Riêng hoạ sĩ Nguyên Tư Nghiêm biểu hiện một cách đầy ý vị nhân văn trong bức tranh sơn mài Con nghé quả thực (1957). Bố cục tranh vẽ về một gia đình nông dân đang vui vẻ nhận được phần “quả thực” của mình là một con nghé.

Con nghé quả thực. Nguyễn Tư Nghiêm, sơn mài, 1957.



Sau công cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, người nông dân hồ hởi trong đời sống mới với phong trào hợp tác xã và từ đây con trâu cũng được vẽ trong những bối cảnh sống động mới của đời sống kinh tế tập thể như bức tranh sơn dầu Một buổi cày (1960) của hoạ sĩ Lưu Công Nhân. Trên cánh đồng loang loáng nước trước vụ cấy là những con trâu béo tốt đang kéo cày, phía sau là những người nông dân hợp tác xã. Với một bút pháp ấn tượng, những con trâu trong tranh được vẽ một cách chân thực và sinh động.

Một buổi cày. Lưu Công Nhân, sơn dầu, 1960.



Vẻ đẹp của nông thôn bình yên có những đống rơm khô vàng ươm trong góc sân vườn không thể thiếu đi hình ảnh con trâu bởi nó như một phần quan trọng cho phong cảnh nông thôn được khắc hoạ rõ nét như trong tác phẩm Phong cảnh nông thôn (1982) của hoạ sĩ Trần Lưu Hậu.

Phong cảnh nông thôn. Trần Lưu Hậu, lụa, 1982.



Bước vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước và đặc biệt là sau thời kỳ Đổi Mới (1986) nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến về cơ cấu quản lý, đặc biệt là sự chuyển đổi của mô hình hợp tác xã đã khiến đời sống nông nghiệp, nông thôn và nông dân một lần nữa thay đổi sâu sắc. Đi liền với những biến đổi này là sự chuyển mình của văn hoá nghệ thuật Việt Nam khi được cởi trói khỏi những hạn chế trong sáng tác từ phong cách, bút pháp tới đề tài. Hình tượng con trâu trong tranh cũng vì thế mà thêm nhiều diện mạo khác mới lạ, con trâu từ một hình ảnh hiện thực nay phai dấu và trở nên nhạt nhoà trong một xã hội hiện đại hoá, trở thành như một ý niệm hay mô típ cho hồi ức và những hoài niệm về một thuả bình yên nay đang thay đổi trong đời sống nông nghiệp và phong cảnh nông thôn. Hình tượng trâu trong tranh như một dạng “cổ mẫu” của một tiềm thức hay những giấc mơ rất gần mà đang xa xôi khó nắm bắt. Có thể nói tác phẩm vẽ trâu như một con giáp đầu năm mới là của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái vào năm Ất Sửu (1985), chú bé mục đồng xưa đi đâu để thay vào đó là một người đàn ông mặc comlê thắt cà vạt đội mũ ngồi tươi cười hớn hở.

Tết Ất Sửu. Bùi Xuân Phái, bột màu, 1985.



Nhiều hoạ sĩ thế hệ đổi mới và hậu đổi mới đã chọn hình ảnh con trâu với cặp sừng cong vênh váo vào trong tác phẩm của mình như Phạm Quang Vinh, Quách Đông Phương, Hà Trí Hiếu,… đặc biệt hai hoạ sĩ Nguyễn Thành Chương và Nguyễn Văn Cường là những người vẽ về trâu tiêu biểu cho hai thế hệ hoạ sĩ đương thời. Nếu như hình ảnh trâu trong tranh Thành Chương là một cấu trúc trong tác phẩm như một dạng mô típ có tính gợi nhắc mã nghệ thuật xưa và giúp tổ hợp bố cục cho tác phẩm giàu tính thị giác thì hình tượng trâu trong tranh của Cường hiện thực và giàu tính biểu hiện hơn.

Mục đồng. Nguyễn Thành Chương, sơn mài, 1997.



Thả diều. Nguyễn Văn Cường, sơn dầu, 2017.



Có thể thấy trong hội hoạ đương đại Việt Nam, hình tượng con trâu là một cấu trúc và mô típ phổ quát của một dạng “vô thức tập thể” của những người nghệ sĩ xuất thân và gần gũi gắn bó với nông thôn và nông dân. Một mong ước bình an nay chỉ còn trong những hoài niệm xa xưa đang khó nắm giữ trong hiện tại.


Hơn một thế kỷ với đầy những biến động lịch sử của dân tộc, hình tượng con trâu dường như cũng theo một cảm thức tương đồng. Con trâu từ một người bạn kẻ tâm tình như một mã văn hoá và đặc tính bất biến của người Việt thành một phương tiện và tư liệu sản xuất, để cuối cùng chỉ còn là một hoài niệm hay mô típ cho những cảm thức đương thời về quá khứ bình yên dung dị, một kiểu “vô thức tập thể” theo cách mà Carl Jung (1875-1961) gọi là “cổ mẫu” đã biến mất. Năm mới Tân Sửu đang tới cũng là thời điểm chúng ta suy tư về con trâu cùng hơn 60% dân số Việt Nam đang là nông dân sống dựa vào nông nghiệp và nông thôn trong một bối cảnh toàn cầu hoá và chuyển đổi số mạnh mẽ như hiện nay.



Nguyễn Anh Tuấn (Thư viện NVH)


Nguồn: Thư viện Nguyễn Văn Hưởng - 23/02/2021.

1 comments:

Tưởng nhớ Tô Ngọc Vân

Tưởng nhớ Tô Ngọc Vân

Ngọc Hiếu

Để kỷ niệm 50 năm ngày mất của họa sĩ Tô Ngọc Vân, Hội Mỹ thuật Việt Nam phối hợp với Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và gia đình của họa sĩ tổ chức triển lãm “Tưởng nhớ Tô Ngọc Vân” tại Nhà Triển lãm 16 Ngô Quyền – Hà Nội. Triển lãm kéo dài đến 26/5. Sau 40 năm kể từ cuộc triển lãm cá nhân của họa sĩ Tô Ngọc Vân năm 1964, người yêu tranh mới được thưởng thức những tác phẩm của ông.

Tại cuộc triển lãm lần này có trưng bày các tác phẩm được Tô Ngọc Vân sáng tác trong thời kỳ 1931 – 1954 với 107 khung tranh trưng bày trong đó có một số tác phẩm gốc của họa sĩ được thể hiện trên chất giấy lụa, tranh khắc do gia đình cố họa sĩ cung cấp. Số còn lại là ảnh chụp từ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam hoặc tranh do các cá nhân sưu tập. Đó là Thiếu nữ bên tràng kỷ của nhà sưu tập Đức Minh, Khi giặc đã qua của một nhà sưu tập Pháp… Đây được coi là cuộc triển lãm quy mô nhất từ trước đến nay về sáng tác của Tô Ngọc Vân.

Tô Ngọc Vân sinh ngày 15/12/1906. Ông từng học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương từ năm 1926 - 1931. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Tô Ngọc Vân luôn tìm tòi những phương pháp tạo hình mới và ông đặc biệt quan tâm tới chất liệu sơn dầu vì ông cho rằng chất liệu này sẽ giúp ông diễn đạt được những tình cảm của ông trước cảnh vật.

Một trong những sáng tác đáng chú ý đầu tiên của ông phải kể đến tác phẩm Bức thư (1931). Trong bức tranh này, Tô Ngọc Vân đã tỏ thiện cảm với những cô gái lao động nền nã bên khung cửi qua những tình cảm kín đáo, đoan trang. Sáng tác đầu tay này thể hiện sự dè dặt trong khuynh hướng sáng tạo. Bức thư đã được tặng bằng danh dự tại Triển lãm hội họa Pháp và được trao Huy chương vàng trong Triển lãm thuộc địa tại Paris.
Sau này, Tô Ngọc Vân vẽ nhiều về phong cảnh đẹp bằng sơn dầu như Ánh Mặt trời, Bụi chuối ngoài nắng, Trời dịu... Thành công của họa sĩ không chỉ ở trong nước mà còn góp phần mang tiếng nói của nghệ thuật Việt Nam đến với nhiều nước.

Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa hụê"



Nhìn chung, đề tài chủ yếu trong những sáng tác trước cách mạng của Tô Ngọc Vân là người đàn bà thành thị. Từ tác phẩm Dưới bóng nắng vẽ người thiếu nữ mơ màng với cái nhìn lơ đãng dưới hoa, nắng bên bờ ao, đến người thiếu nữ có vẻ bâng khuâng. Tranh Tô Ngọc Vân không gợi lên một chân dung nhân vật cụ thể mà chỉ như biểu tượng về sự trong trắng, cao quý của người phụ nữ. Người phụ nữ trong tranh ông đều được ông vẽ với lòng trân trọng, không sa vào khoái cảm nhục thể, không quá mơ hồ, ẻo lả, kiêu sa như người phụ nữ trong tranh của các họa sĩ đương thời.

Từ năm 1945, Tô Ngọc Vân từ bỏ đề tài cũ và bắt đầu giai đoạn sáng tác mới của mình. Tô Ngọc Vân đi vào cuộc sống kháng chiến với tất cả những băn khoăn, day dứt của người nghệ sĩ cũ, đồng thời lại được thực tế vừa cụ thể, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, ông nhận thức chỗ đứng của mình trong sự nghiệp của dân tộc. Họa sĩ đã phát hiện trong những con người bình dị, mộc mạc một vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng.

Tên tuổi của họa sĩ Tô Ngọc Vân thực sự gắn liền với nghệ thuật tạo hình Việt Nam hiện đại. Ông đã đến với hội họa với tấm lòng chân thành đối và sự đam mê. Ông là một trong những nghệ sĩ tiêu biểu của giai đoạn khởi đầu nền nghệ thuật tạo hình thế kỷ 20 của Việt Nam. Ông mất ngày 17/6/1954.

Ngọc Hiếu
Nguồn: Báo Hànộimới - 15:53 thứ sáu ngày 14/05/2004

0 comments: