Thứ Hai, 1 tháng 10, 2018

THIẾU NỮ HÀ THÀNH NÉT ĐẶC SẮC TRONG TRANH VẼ PHỤ NỮ VIỆT NAM CỦA HỌA SĨ TÔ NGỌC VÂN


THIẾU NỮ HÀ THÀNH NÉT ĐẶC SẮC TRONG TRANH VẼ PHỤ NỮ VIỆT NAM CỦA HỌA SĨ TÔ NGỌC VÂN

Nguyễn Tấn Đạt

Con người là sản phẩm cao quý nhất do lao động hình thành nên có cấu trúc tỉ lệ cân đối hoàn chỉnh có cấu tạo hình khối đẹp nhất trong giới tự nhiên. Chính vì vậy từ ngàn xưa cho tới nay hình tượng con người đặc biệt là người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà nghệ sĩ cho dù cơ thể người phụ nữ là đối tượng khó vẽ và phức tạp đối với người học vẽ và sáng tạo mỹ thuật.


Hai thiếu nữ và em bé - Tô Ngọc Vân


Thiếu nữ bên hoa Huệ và những tác phẩm nổi tiếng của danh họa Tô Ngọc Vân


Hình tượng người phụ nữ xuất hiện rất sớm trong lịch sử nghệ thuật tạo hình Việt Nam, từ thuở hồng hoang trên vách đá hang Đồng Nội (Hoà Bình). Người Việt cổ xưa đã phản ánh vẻ đẹp của các cô gái nguyên thuỷ bằng những nét đục khắc thô sơ, ngộ nghĩnh. Có lẽ đây là "tác phẩm" mỹ thuật cổ nhất ở nước ta. Đến thời đồ đồng, người phụ nữ cùng công việc, chức năng của họ đã đi vào đời sống mỹ thuật thực dụng khá độc đáo, phong phú. Từ đầu đến eo, hông của họ được tạo hình thành chuôi dao, cán rìu, rồi đến những công việc như xay thóc, giã gạo, nhảy múa và nhiều động thái vũ đạo đa dạng, phóng khoáng được cách điệu tài tình bằng những nét, mảng kỷ hà khái quát cao độ trên các mặt và tang trống đồng, đặc biệt là trống đồng Ngọc Lũ. Thiên chức làm vợ và sinh nở được đưa lên thành hình tượng nghệ thuật hết sức táo bạo trên nắp thạp đồng Đào Thịnh.

Nếu như nghệ thuật ở giai đoạn đồ đá, đồ đồng vai trò người đàn bà được sánh ngang hàng với đàn ông trong sinh hoạt bình thường mang nhiều tính nhân văn thì càng dần về sau hình tượng phụ nữ được phân định thứ bậc. Họ đã hoá thân thành Phật Bà linh thiêng với nhiều bàn tay, con mắt đứng ngồi vào hàng tôn nghiêm trong Tam Bảo hoặc được cách điệu đẹp rất "thần linh" trong các nhân vật Thánh Mẫu, Tiên Cô, Bà Chúa... theo quan niệm siêu phàm của tín ngưỡng... qua các tượng và tranh thờ từ miền xuôi lên miền núi. Cái đẹp của thân liễu bồ được các nghệ sĩ cung đình xưa với cách nhìn tinh tế và quan niệm dân gian lành mạnh, khoẻ khoắn, táo bạo đưa lên thành những bố cục chạm khắc bằng chất liệu gỗ, đá vô tri, tạo ra những tác phẩm tuyệt mỹ như "Cung nữ múa hát", "Nữ tỳ dâng hoa", "Làm trò", "Chuốc rượu"... Lúc thịnh nền văn minh châu thổ trong ấm no, hạnh phúc của xóm làng trù mật thì hình tượng người phụ nữ xuất hiện rất nhiều trong các bức chạm nổi trên gỗ, đá ở đình, chùa, miếu, am; những cảnh "Tắm đầm sen", "Gái trai đùa ghẹo", "Chải tóc", "Bắt cua", "Chèo thuyền"... được các nghệ sĩ nơi dân dã thể hiện tài tình bằng những khoảng "lộng" hay những khối chìm nổi mang lại cho tác phẩm chất thần rất đáng khâm phục.

Với hội họa truyền thống, hình tượng phụ nữ với vẻ đẹp của đôi mắt lá dăm, đôi mày lá liễu, tóc bỏ đuôi gà... cùng những đường cong gợi cảm ẩn trong mảnh yếm thắm, tà áo tứ thân đã khiến các họa sĩ của các dòng tranh dân gian mê đắm, tạo ra nhiều tác phẩm như "Hứng dừa", "Đánh ghen", "Bà Triệu", "Bà Trưng"... (Đông Hồ) và "Tố nữ", "Thuý Kiều", "Hội chùa", "Đi chợ" (Hàng Trống)


Đánh ghen - Tranh dân gian Đông Hồ


Hứng dừa - tranh dân gian Đông Hồ


Khi mỹ thuật hiện đại ra đời (1925) các họa sĩ của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được tiếp thu những kiến thức tạo hình hàn lâm, hiện đại, họ nhìn nhận và nghiên cứu hình thể phụ nữ rất kỹ bằng những bài hình họa nghiêm túc và đã đưa vẻ đẹp vĩnh hằng với những đường cong tuyệt mỹ vào những kiệt tác mà cho tới mai sau vẫn là báu vật văn hóa nước nhà. Nổi bật trong số các họa sĩ tiêu biểu trong thời kì này là họa sĩ Tô Ngọc Vân với đề tài đặc sắc là người thiếu nữ hà thành. Từ tác phẩm “Dưới bóng nắng” vẽ người thiếu nữ mơ màng, với cái nhìn lơ đãng dưới hoa, nắng bên bờ ao, đến người thiếu nữ bâng khuâng - tranh Tô Ngọc Vân không gợi lên một chân dung nhân vật cụ thể, chỉ như biểu tượng về sự trong trắng, cao quý của người phụ nữ. Bức tranh được mọi người biết đến nhiều nhất và cũng được xem là kiệt tác về đề tài người phụ nữ bằng chất liệu sơn dầu nổi bật nhất của mỹ thuật Việt Nam là “Thiếu nữ bên hoa huệ” (1943) cô gái ngồi vén tóc bên những đoá hoa huệ thơm ngát màu chủ đạo trong tranh là màu trắng của áo dài và của những bông hoa huệ. Người phụ nữ được ông thể hiện với lòng trân trọng trước đối tượng, không sa vào khoái cảm nhục thể, hay cũng không quá mơ hồ, ẻo lả, kiêu sa như người phụ nữ trong tranh của các họa sĩ đương thời.

Thiếu nữ bên hoa huệ (sơn dầu - 1943)



Thiếu nữ Hà Nội xưa



Thiếu nữ Hà Nội mặc yếm



Thiếu nữ bên hoa Sen - Tô Ngọc Vân



Thiếu nữ bên tranh tố nữ - tranh lụa - Tô Ngọc Vân


Thông qua các tác phẩm vẽ phụ nữ Hà thành của ông ta thấy được nét đặc sắc rất riêng của ông không trộn lẫn với các họa sĩ cùng thời và có chổ đứng rất trang trọng trong lịch sử hội họa nước nhà. Vẽ đẹp người phụ nữ Hà thành trong tranh của ông là sự kết hợp trộn lẫn những nét tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam trong truyền thống ngàn năm và hiện đại với cái nhìn rất riêng rất đặc biệt của một nhà họa sĩ tài ba đáng để cho chúng ta khâm phục và nghiên cứu. Vẽ đẹp và sức sống của người phụ nữ trong tranh ông luôn cùng thời gian sống bước song hành.
Nguyễn Đạt


Blog Nguyễn Đạt - April 07, 2018.

0 comments:

GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ TRONG QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỌA SĨ TÔ NGỌC VÂN

GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ TRONG QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỌA SĨ TÔ NGỌC VÂN

Nguyễn Tấn Đạt

1. BỐI CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA THẾ KỶ 20




Trong những năm 1920 xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến sâu sắc ở thành thị cuộc sống tư sản hoá đã thắng lợi và ổn định, đời sống về mặt tinh thần cũng được đòi hỏi với nhu cầu tiếp cận với nền văn minh phương tây đặc biệt là Pháp đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của cư dân thành thị điều đó ảnh hưởng nhiều đến những giá trị truyền thống của người Việt Nam. Cho đến vài năm đầu của những năm 30, thực dân pháp đã thực hiện ở Việt Nam hai cuộc khai thác thuộc địa. Dù cố duy trì phương thức bốc lột phong kiến, khai thác thuộc địa tất nhiên làm nẩy nở những quan hệ tư sản, tầng lớp tiểu tư sản hình thành từ sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, đến những năm 20 đông đảo lên chưa từng thấy. Nhiệp độ và tốc độ cuộc sống gấp và nhanh, những mối liên hệ giữa các thành thị và quan hệ giao lưu quốc tế trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đã làm cho thành thị thay đổi mau lẹ. Một lối sống tư sản hoá lan tràn khắp nơi ở thành thị Việt Nam. Trong môi trường ấy, các tầng lớp và giai cấp ở thành thị-tư sản và công nhân, tiểu thương, tiểu chủ, công chức, dân nghèo thành thị, tri thức tân học và nhà nho cho tới các cô sen, cậu bồi - tuy rất khác nhau về mức sống và khả năng thực hiện ước mơ của mình, rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau về thái độ đối với chế độ đương thời, vẫn gần nhau về những nét tâm lí và thị hiếu: thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, muốn sống và giải trí trong môi trường náo nhiệt, khao khác cái lạ, cái đang đổi thay. Tầng lớp trên của xã hội này có lối sinh họat thành thị mới theo văn minh phương Tây với những phương tiện sinh họat mới và hiện đại: Họ đi ô tô, ở nhà lầu, dùng quạt điện, mặc áo vét đi giầy bít, đi nghe hòa nhạc và xem phim... Thời trang cũng được thay đổi theo từng năm. Cũng với những thay đổi sinh họat là các thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc.

Văn hóa phương Tây với điện ảnh, các ca khúc Pháp, Mỹ, văn học lãng mạn Pháp đã ảnh hưởng sâu sắc tới giới trí thức trẻ Việt Nam. Được học ở các trường Pháp như Quốc học Huế, Trường Bưởi, Petrus Ký rồi Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương... các thanh niên này nói được tiếng Pháp, yêu thích văn hóa Pháp. Họ nghe nhạc phương Tây, không thích đàn tranh, đàn bầu, đàn nhị mà tập chơi mandoline, guitare và hơn nữa là violon, piano.

Nhiều giá trị bền vững của truyền thống bị giới trẻ coi thường, thậm trí còn mang ra chỉ trích. Chính hiện tượng đó ngày càng lớn khiến một số nhà tri thức cũ lo lắng “thế đạo nhân tâm” bị suy sụp do phát triển xã hội không gắn liền với yêu nước.

Trong khi đó thực dân pháp đã thực hiện một chính sách văn hoá nô dịch, nhằm làm cho nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt với những truyền thống tốt đẹp đồng thời phục hồi những mặt lạc hậu trong văn hoá xưa. Pháp muốn cắt dứt mối quan hệ giữa văn hoá Việt Nam và Trung Quốc đồng thời lại làm sống dậy đạo đức Khổng - Mạnh, Trình - Chu. Pháp khuyến khích đưa văn chương yêu đương uỷ mị của nước Trung Hoa nửa thuộc địa nửa phong kiến, đưa văn hoá phương tây, trước hết là văn hoá Pháp vào Việt Nam nhằm gây sự khiếp phục. Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, nếu thực dân pháp khuyến khích chủ nghĩa cải lương tư sản là để phục vụ cho “chính sách hợp tác” thay cho “chính sách đồng hoá” đã bị phá sản trước nhân dân Việt Nam anh dũng, thì việc thực dân Pháp cho những viên chức văn hoá hô hào đổi mới là một bộ phận trong chính sách văn hóa " Lối thoát hơi cần thiết" thay thế cho chính sách đồng hoá, tiêu diệt văn hoá Việt Nam đã thất bại trước ý chí dân tộc của nhân dân ta. Tuy nhiên ngoài những mặt tiêu cực thì ở thành thị nhờ những phương tiện mới những tương tác mới đã mở ra trước mắt không chỉ “thế giới vĩ mô” mà còn “thế giới vi mô”, những xung đột và những mâu thuẩn mới mà công chúng cần khám phá, cũng như những nhận thức tiến bộ những nhu cầu và khoái cảm thẩm mĩ mới cần được đáp ứng.



Phố Tràng Tiền – Hà Nội đầu thế kỷ 20


0 comments: