Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2017

Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954) - HS Trần Khánh Chương

Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954)

HS Trần Khánh Chương

Tô Ngọc Vân (bút danh: Tô Tử, Ái Mỹ) quê xã Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, là một trong những người đặt nền móng xây dựng nền hội hoạ Việt Nam thế kỉ 20.

Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng Chạp 1906. Hà Nội là chiếc nôi của cuộc đời và nghệ thuật Tô Ngọc Vân. Đi nhiều nơi trong nước và sang cả Cam-pu-chia dạy học, nhưng Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội vẫn là nơi ông chứng kiến nhiều nhất nỗi đau, niềm vui trong đời sống. Nơi ấy đã nuôi ông lớn lên để gắn mình với những sự kiện nghệ thuật của đất nước đến trọn đời.

Thuở còn là một cậu bé con nhà nghèo. Tô Ngọc Vân phải đến sống nhờ nhà bà cô, quá tuổi mới được đến trường học chữ. Tuổi thơ khắc nghiệt đã sớm tạo cho ông ý chí tự lập, sống một mình trong ý nghĩ, tình cảm. Đôi lúc rảnh rang, ông đến rạp cải lương xem hát và rất mê các bậc anh hùng, nghĩa hiệp được tái hiện trên sân khấu. Về đến nhà là cậu bé ấy cầm gạch non vẽ đến mê mãi hình các nhân vật sân khấu đã in đậm vào tâm trí.

Đang học trung học năm thứ ba, ông bỏ học đi theo con đường nghệ thuật. Năm 1926, ông trúng tuyển vào Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương với tất cả lòng nhiệt thành và ham yêu cái đẹp. Những năm trên ghế nhà trường, Tô Ngọc Vân tiếp nhận những kiến thức tạo hình mới với sự hăng say không biết mệt mỏi. Phương pháp tạo hình mới, đặc biệt là chất liệu sơn dầu, có sức cuốn hút mạnh mẽ, bởi ông nhận thức nghệ thuật của môn này đã giúp diễn đạt được những tình cảm rạo rực, xao xuyến trong tâm hồn của nghệ sĩ đứng trước cảnh vật. Với Bức thư (1931), Tô Ngọc Vân đã tỏ thiện cảm với những cô gái lao động nền nã bên khung cửi qua những tình cảm kín đáo, đoan trang. Đó là sự dè dặt của một khuynh hướng. Sau này Tô Ngọc Vân thể hiện sâu đậm hơn người phụ nữ với sự đồng cảm trân trọng. Đây là lúc họa sĩ vẽ nhiều về phong cảnh đẹp bằng sơn dầu như Ánh mặt trời, Bụi chuối ngoài nắng, Trời dịu...

Thành công của họa sĩ không chỉ ở trong nước mà còn góp phần mang tiếng nói của nghệ thuật Việt Nam đến với nhiều nước. Năm 1931, tranh sơn dầu Bức thư được tặng bằng danh dự ở Triển lãm hội họa Pháp và được thưởng huy chương vàng ở Triển lãm thuộc địa tại Paris.

Họa sĩ Tô Ngọc Vân tốt nghiệp Trường cao đẳng mỹ thuật năm 1931. Dù nhiều người biết tiếng, ông vẫn không tìm được chỗ làm, phải sống thiếu thốn bằng nghề dạy học, vẽ tranh thuê, trình bày và minh họa cho một số tòa báo ở Hà Nội. Năm 1935 ông mới được Pháp bổ nhiệm đi dạy vẽ ở trường Xi-xô-vát (Phnôm Pênh).

Năm 1938, Tô Ngọc Vân trở về Hà Nội dạy ở Trường trung học Bưởi. Đến năm 1939, ông là giảng viên Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Đề tài chủ yếu trong những sáng tác trước cách mạng của Tô Ngọc Vân là người đàn bà thành thị. Từ tác phẩm Dưới bóng nắng vẽ người thiếu nữ mơ màng, với cái nhìn lơ đãng dưới hoa, nắng bên bờ ao, đến người thiếu nữ bâng khuâng - tranh Tô Ngọc Vân không gợi lên một chân dung nhân vật cụ thể, chỉ như biểu tượng về sự trong trắng, cao quý của người phụ nữ. Người phụ nữ được ông thể hiện với lòng trân trọng trước đối tượng, không sa vào khoái cảm nhục thể, hay cũng không quá mơ hồ, ẻo lả, kiêu sa như người phụ nữ trong tranh của các họa sĩ đương thời.

Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám đã làm thay đổi tâm thức và cuộc sống của toàn dân tộc, trong đó có văn học nghệ thuật. Nhiều họa sĩ, nhà điêu khắc tốt nghiệp hoặc đang học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, tham gia cách mạng bằng chính nghề nghiệp của mình.

Họa sĩ Tô Ngọc Vân đã vẽ hai bức tranh cổ động khổ lớn: Phá xiềng và Việt Nam giải phóng. Ông được Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trao cho trách nhiệm lập lại trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, trụ sở trường được đặt tại phố Lò Đúc, Hà Nội. Khóa đầu tiên khai giảng ngày 15-11-1945, trong điều kiện trường sở bị thiếu thốn nhưng ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Cùng với việc mở trường, ông tham gia sáng tác và trưng bày tác phẩm trong những triển lãm mỹ thuật đầu tiên của Cách mạng.

Đầu năm 1946 được Hội văn hóa Cứu quốc giới thiệu, ông cùng các họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim vào Bắc Bộ phủ vẽ tranh và nặn tượng Bác. Bức tranh sơn dầu Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ đã được trưng bày tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội. Đó là bức tranh chân dung sơn dầu đẹp nhất của Tô Ngọc Vân sáng tác về lãnh tụ kính yêu của dân tộc.

Thực dân Pháp trở lại xâm chiếm nước ta, danh họa Tô Ngọc Vân đã cùng nhiều văn nghệ sĩ lên chiến khu Việt Bắc. Chiến khu Việt Bắc đã trở thành cái nôi rèn luyện các trí thức, nghệ sĩ quen sống ở thành thị. Sống trong lòng nhân dân, cùng chung vui buồn với chiến sĩ, người lao động đã giúp cho ông cảm hứng sáng tạo trong điều kiện mới.

Những ngày ở Việt Bắc ông làm nhiều việc: Công tác tại đội tuyên truyền xung phong, vẽ tranh, kẻ khẩu hiệu trên những mảng tường, sau đó chuyển sang công tác làm họa sĩ tại Đội kịch Tháng Tám. Năm 1948, ông làm trưởng đoàn Văn hóa kháng chiến, sau đó làm giám đốc xưởng họa sơn mài Việt Nam. Tại Đại hội văn hóa toàn quốc (1948), ông được bầu làm ủy viên Ban chuyên ngành Mỹ thuật. Ông luôn tranh thủ thời gian ký họa cuộc sống con người, cảnh vật của núi rừng Việt Bắc.

Thời kỳ này ông sáng tác nhiều tranh, đáng chú ý là các bức khắc gỗ: Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ, Hà Nội vùng đứng lên (1948), Bác Hồ với thiếu nhi (1951) và các bức tranh sơn mài Thiếu nữ, Khi giặc đi qua, Nghỉ chân bên đồi, Nữ cứu thương (1948), Chạy giặc trong rừng (1949).

Loạt tranh ký họa về Tây Bắc bằng chì, bút sắt, màu nước về bộ đội, dân công, nông dân, ta có thể kể tới các bức Hai chiến sĩ, Chân dung hai bà lão nông dân, Bộ đội trong hang, Ruộng bậc thang, Một bản ở Tây Bắc (1951). Loạt ký họa màu nước, chì than về nông dân vào năm 1953 tiêu biểu như: Ông lão cầm đuốc đi học, Bủ đường đi học, Tôi có ý kiến, Con trâu quả thực;.... Loạt ký họa về bộ đội từ năm 1949 đến 1954 bằng chất liệu chì, màu nước, bút sắt, bột màu, sơn dầu, tiêu biểu như Hai chiến sĩ, Sinh hoạt trong hang, Xưởng quân giới...

Cùng với nhiều họa sĩ khác, các hoạt động đi thực tế sáng tác, triển lãm của họ đã làm cho Việt Bắc không những là thủ đô kháng chiến mà còn là thủ đô của mỹ thuật trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Cuối năm 1949, họa sĩ Tô Ngọc Vân được giao làm Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam tại xóm Chòi, Yên Dã thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Cùng giảng dạy tại nhà trường có các danh họa Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sĩ Ngọc. Lớp sinh viên khóa kháng chiến với hơn 20 người được sự dạy dỗ trực tiếp của Tô Ngọc Vân và các họa sĩ tài danh khác đã trở thành những họa sĩ tên tuổi của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam, ta có thể kể tới các họa sĩ Trần Lưu Hậu, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Đào Đức, Nguyễn Thế Vị, Mai Long, Lê Huy Hòa, Lê Lam... Ông thường nhắc nhở học sinh học kết hợp với hành và bản thân ông cũng gương mẫu thực hiện.

Những chuyến đi thực tế cùng sinh viên, hoặc đi “ba cùng” trong cải cách ruộng đất đã giúp ông sáng tác nhiều tác phẩm mang dấu ấn của cuộc sống nông thôn, miền núi, quân đội... Những bức ảnh chụp Tô Ngọc Vân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp cho ta thấy nét giản dị, yêu đời, tin tưởng vào lý tưởng. Năm 1952, ông nhận được thư khen của Bác Hồ vào năm 1954 được Bác Hồ tặng áo kỷ niệm (hiện lưu giữ ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam).

Tháng 4-1954, ông được lệnh lên đường đi Điện Biên Phủ. Trên đường ra trận, ông đã vẽ nhiều ký họa về bộ đội, dân công, phong cảnh và con người các dân tộc Tây Bắc: Giáo viên người Thái, Cô gái dân tộc Mèo, Ba cô gái Thái, Cho ngựa ăn. Ngày 17-6-1954 ông đã hy sinh tại cây số 41 Ba Khe, khi ông đã vượt qua đèo Lũng Lô. Chiếc cặp vẽ mà ông đem theo đi chiến dịch đã có nhiều ký họa dọc đường như: Trú quân, Hành quân qua suối, Lên đèo, Qua đèo Lũng Lô, Chuẩn bị lên đường. Đặc biệt trong đó có bức ký họa chì Đèo Lũng Lô được ghi ở góc ngày 15-6-1954, có thể đó là bức tranh cuối cùng trong cuộc đời sáng tác của ông.

Danh họa Tô Ngọc Vân đã hy sinh trong khi đang sáng tác tại chiến trường. Lịch sử dân tộc và lịch sử Mỹ thuật ghi danh ông bởi nhân cách tỏa sáng của một họa sĩ bậc thầy và người chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng trong kháng chiến chống Pháp năm xưa.

HS Trần Khánh Chương (CT Hội Mỹ thuật Việt Nam)
Nguồn: Đông Tác giao lưu - 5/2/2007.

0 comments:

Họa sĩ Tô Ngọc Vân | 1908 - 1954 - Phạm Phúc vietnamarts

Họa sĩ Tô Ngọc Vân | 1908 - 1954

Phạm Phúc vietnamarts


Tài năng của Tô Ngọc Vân được đánh giá cao ngay từ thời thuộc Pháp, mà ví dụ tiêu biểu là việc ông đoạt Huy chương Vàng ở Triển lãm thuộc địa Paris năm 1931. Sau Cách mạng Tháng Tám, uy tín của ông càng lên cao với việc ông được chính thể mới tin tưởng giao nhiệm vụ làm Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Mỹ thuật Việt Nam. Họa sĩ, liệt sĩ Tô Ngọc Vân đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Sau đây là một số mẩu chuyện liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của ông...

Bức họa " Thiếu nữ bên hoa huệ" của Họa sĩ Tô Ngọc Vân

Số phận long đong của "Thiếu nữ bên hoa huệ"


Kiệt tác "Thiếu nữ bên hoa huệ" được Tô Ngọc Vân sáng tác vào năm 1943, khi ông đang giảng dạy tại Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nguyên mẫu của bức tranh là cô Sáu, người từng nhiều lần xuất hiện trong tác phẩm của Tô Ngọc Vân, trong đó có bức "Thiếu nữ với hoa sen". Không chỉ "hợp tác" với Tô Ngọc Vân, cô Sáu còn là người mẫu cho nhiều họa sĩ nổi tiếng thời bấy giờ, như Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị...

"Thiếu nữ bên hoa huệ" mô tả cảnh một thiếu nữ mặc áo dài trắng đang nghiêng đầu một cách đầy duyên dáng, khơi gợi... về phía lọ hoa huệ trắng. Hình dáng cô gái kết hợp với những chi tiết và màu sắc xung quanh tạo thành một hình khối giản dị, toát lên một nét buồn dịu nhẹ. Những bông huệ cắm trong lọ bên cô gái không phải là loại hoa huệ bông nhỏ mà ta thường dùng trong các ngày rằm mà là hoa huệ tây (được gọi phổ biến dưới cái tên hoa loa kèn). Điều này lý giải cho câu hỏi: Vì sao bức tranh rành rành tên gọi "Thiếu nữ bên hoa huệ" song những bông hoa trong bình lại là hoa… loa kèn.

Với bố cục chặt chẽ, hoàn hảo, cách sử dụng màu điêu luyện, "Thiếu nữ bên hoa huệ" đã thể hiện được cái mềm mại gợi cảm ở đường cong trên đùi thiếu nữ và nhất là cách dùng dao gạt bớt lớp sơn phía trên để lộ ra lớp sơn hồng bên dưới tạo nên sắc ửng hồng trên má thiếu nữ… Ngay trong lần triển lãm đầu tiên tại Hà Nội, bức họa đã được nhiều người chú ý. Năm 1945, "Thiếu nữ bên hoa huệ" được trưng bày tại Nhà Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội) cùng với tranh của Nguyễn Đỗ Cung, Lê Văn Đệ… Bác Hồ đã đến xem triển lãm này. Tại triển lãm, đã có hai người khách Nhật Bản ngỏ lời mua bức tranh, nhưng tác giả từ chối không bán.

Kiệt tác "Thiếu nữ bên hoa huệ" quả là có số phận của một "hồng nhan đa truân". Theo GS-TS Tô Ngọc Thanh, trưởng nam của họa sĩ Tô Ngọc Vân kể lại thì: "Khi gia đình đi kháng chiến, bức tranh được để lại trong nhà chúng tôi ở ngõ Trại Khách, phố Khâm Thiên, nay là ngõ Thổ Quan. Đến khi hòa bình trở về Hà Nội thì nó đã trở thành sở hữu của nhà sưu tập nổi tiếng Đức Minh. Ông Đức Minh nói là ông mua lại bức tranh từ một người khác".

Bốn năm sau ngày tác giả bức vẽ hy sinh, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã mượn "Thiếu nữ bên hoa huệ" từ bộ sưu tập của nhà sưu tập Đức Minh để đưa đi tham gia "Triển lãm mỹ thuật 12 nước XHCN" tổ chức tại Liên Xô, Hungary, Ba Lan, Rumani… Đây là lần đầu tiên "Thiếu nữ bên hoa huệ" được "xuất ngoại". Ngay lập tức, Tô Ngọc Vân được báo chí của những nước này ca ngợi như một hiện tượng của hội họa Việt Nam.

Sau khi triển lãm kết thúc, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam có nhờ họa sĩ Nguyễn Văn Thiện chép lại bức tranh và treo ở đây, nhưng không ghi chú là tranh chép. Sau năm 1990, phiên bản này mới được gỡ bỏ bởi nỗ lực chỉ treo tranh bản chính của bảo tàng.

Theo một tài liệu thì năm 1965, nhà sưu tập Đức Minh có nhã ý nhượng toàn bộ số tranh, trong đó có "Thiếu nữ bên hoa huệ" cho Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chỉ với điều kiện: Lập một gian trưng bày riêng, ghi rõ xuất xứ tranh của nhà sưu tập Đức Minh tặng bảo tàng. Hẳn vì quan niệm "không dính líu với tư sản" nên Bảo tàng đã từ chối đề nghị này.

Sau khi ông Đức Minh tạ thế (vào năm 1983), bộ tranh được chia cho các con ông hưởng quyền thừa kế. Có người giữ được, nhưng cũng có người đem bán.

Họa sĩ Tô Ngọc Thành, con trai thứ của nhà danh họa cho biết: Khi nhận được tin về việc bức tranh nổi tiếng của bố mình sẽ được bán đấu giá, lo sợ bức tranh bị đưa ra nước ngoài, ông đã báo cho các cấp quản lý có liên quan biết, nhưng không thấy ai hồi âm (có lẽ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam không dám mua vì theo quy định lúc đó, giá cao nhất dành cho một bức tranh chỉ là 2.000USD). Thế là kiệt tác nghệ thuật này lọt ra nước ngoài... Cũng theo ông Thành, trong cuốn "100 năm mỹ thuật đương đại Việt Nam" do gallery Đông Sơn của ông Hà Thúc Cần ấn hành tại Singapore có in ảnh bức "Thiếu nữ bên hoa huệ". Đây là bức sao chụp từ bản gốc. Còn thì tuyệt đại đa số các bức "Thiếu nữ bên hoa huệ" mà người Việt Nam ta được... chiêm ngưỡng, thưởng thức từ mấy chục năm nay (cả bức in trên logo triển lãm nhân 100 năm sinh Tô Ngọc Vân) cũng chỉ là... tranh chép, trong đó có những phiên bản không đồng nhất.

Hết lòng vì học trò

Trên cương vị là thầy dạy vẽ của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (thời kỳ trước Cách mạng), hiệu trưởng đầu tiên của Trường Mỹ thuật Việt Nam (thời kỳ sau Cách mạng), họa sĩ Tô Ngọc Vân đã có ảnh hưởng lớn đối với nhiều họa sĩ có tên tuổi của Việt Nam...

Họa sĩ Ngô Mạnh Lân, người từng được họa sĩ Tô Ngọc Vân trực tiếp giảng dạy sau này có kể lại: "Nói về cách điệu, anh nêu những thí dụ nhỏ, dễ hiểu để chứng minh: giản đơn không có nghĩa là tước bỏ. Khi vẽ một anh bộ đội, ở mặt mũi, quần áo ta đã đơn giản bớt những nét thừa, nhưng cũng rất gần với sự thật, đến khi vẽ chiếc áo trấn thủ ta lại gạch những nét thẳng tắp như ổ quả trám đều đặn, như vậy sẽ không ăn khớp với cái chung, như thể vẽ hàng rào gắn vào người! Ngay những chi tiết nhỏ trong vẽ trang trí cũng được anh giảng giải cẩn thận với nhận xét sâu".

Có một chuyện mà nếu các học trò của Tô Ngọc Vân không nói ra, hẳn ít người biết: Khóa đào tạo hội họa và âm nhạc của chính phủ kháng chiến trên chiến khu Việt Bắc đến cuối năm 1951 thì hết kinh phí. Trong khi trường nhạc do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Hiếu làm hiệu trưởng phải giải tán, thì Tô Ngọc Vân, trên cương vị hiệu trưởng trường họa lại có cách giải quyết khác. Ông bàn với vợ, nhà còn mấy cây vàng bán đi để nuôi học trò học tiếp thêm một năm cho trọn khóa...

Không dưng mà khóa học ấy sau này được nhiều người nhắc tới với cái tên gọi đầy yêu thương trìu mến "Khóa hội họa Tô Ngọc Vân".

Người ngã xuống sát ngày đình chiến

Đến nay, nói về cái chết của họa sĩ Tô Ngọc Vân, nhiều người chỉ biết đại khái là ông hy sinh vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, trong khi đang vẽ tranh về các chiến sĩ Điện Biên Phủ chiến thắng trở về. Thực tế thì cái chết của nhà danh họa diễn ra thật xót xa, bi tráng. GS-TS Tô Ngọc Thanh, người từng trực tiếp cải táng cha mình đã kể lại: Khi ông đang dạy học ở Bắc Giang thì nhận được tin cha mình bị trúng bom trên đèo Lũng Lô, Yên Bái. Bấy giờ tuy ta đã chiến thắng vang dội tại chiến trường Điện Biên Phủ, song Hiệp định Geneve vẫn chưa được ký nên cuộc chiến, trong thực tế vẫn chưa thể chấm dứt.

Trưa ngày 17/6/1954, họa sĩ Tô Ngọc Vân cùng đoàn văn nghệ sĩ đi chiến dịch trở về, đang hý hoáy ký họa chân dung một cụ già người Tày trong một căn nhà sàn ở lưng đồi thì một loạt bom nổ dữ dội gần đó đã khiến một hòn đá đập trúng người ông (sau này kiểm điểm lại thì do một toán dân công khi qua đèo đã sơ ý nấu cơm lộ khói khiến máy bay Pháp phát hiện ra, ập đến giội bom). Sau vụ đánh phá này, hơn một trăm dân công chết tại chỗ. Họ được chôn chung một hố. Tô Ngọc Vân được cụ già người Tày chôn riêng bên bờ suối.

Nhận được hung tin, Tô Ngọc Thanh đã hối hả đạp xe vượt hàng trăm cây số đến nơi. Khi ấy, cha ông đã chôn được hơn mười ngày. Phần vì lo mộ cha đặt bên suối, sau này có nguy cơ bị lũ cuốn, phần vì bán tín bán nghi không rõ người dưới mộ có phải cha mình không, Tô Ngọc Thanh đã đau đớn đào mộ lên. Sau khi nhận diện đó đích thực cha mình, ông đã chôn cất cha trên đỉnh một quả đồi gần đó. Một năm sau, cơ quan cho bốc mộ Tô Ngọc Vân, đưa về an táng tại nghĩa trang Hợp Thiện (nằm cạnh đường đi Hà Đông, nay là phố Nguyễn Trãi). An táng chưa được lâu, người ta dọn mặt bằng xây nhà máy, hài cốt nhà danh họa lại được chuyển lên nghĩa trang Mai Dịch, khi đó dùng để mai táng những người hy sinh trong đêm 19/12/1946. Một thời gian sau đó, nghĩa trang Mai Dịch được xây mới, nâng cấp thành nghĩa trang quốc gia, mộ họa sĩ lại được đặt ở chỗ khác trong khu cho hợp với quy hoạch


đốt đuốc đi học của hs tô ngọc vân
(1954, thuốc nước. Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam)


Hai chiến sĩ tranh tô ngọc vân


Làng quê tranh tô ngọc vân

tranh lụa tô ngọc vân

Nguồn: vietnamarts - Phạm Phúc

0 comments: