Hai bộ tứ của Hội họa Việt Nam - Nguyễn Hương

Hai bộ tứ của Hội họa Việt Nam



Rất nhiều người đã từng nghe nói đến bộ tứ của Hội họa Việt Nam nhưng trừ những người hoạt động trong ngành còn không có nhiều người biết rằng thực tế nền Hội họa Việt Nam có đến hai “Bộ Tứ”.

Cả 8 danh họa được xếp vào danh sách 2 bộ tứ của Hội Họa Việt Nam đều là những nhân vật kiệt xuất và có nhiều đóng góp cho nền mỹ thuật nước nhà. Trong đó “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn” là bộ tứ thứ nhất. “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn” gồm Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân và Trần Văn Cẩn. Các danh họa không chỉ có những thành tựu lớn trong sáng tạo nghệ thuật và còn là những nhân vật có sáng tạo tiên phong của nền hội họa Việt Nam khi đó còn rất non trẻ. Còn một điều nữa cũng rất thú vị đó là cả bốn ông cùng tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương – một trường cao đẳng thành lập năm 1925 thuộc hệ thống Đại học Đông Dương được chính quyền Pháp cho xây dựng đầu thế kỷ 20. Bên cạnh đó, hai trong số bốn danh họa trong bộ tứ thứ nhất này đã từng đảm nhiệm cương vị Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam.

Nguyễn Gia Trí




Nguyễn Gia Trí ( 1908 – 1993) là một trong những người tiên phong tạo ra khuynh hướng nghệ thuật mới cho hội họa Việt Nam. Tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1936, ông có thể vẽ trên nhiều chất liệu song những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là những tác phẩm sơn mài. Ông là người đã có công nghiên cứu, tìm tòi để phối hợp lối in khắc với những phương thức sơn mài mới, đồng thời áp dụng kết hợp những nguyên tắc vẽ của phương Tây để tạo nên những kiệt tác của hội họa Việt Nam như: Thiếu nữ trong vườn; Thiếu nữ bên cây phù dung; Đình làng vào đám…Các tác phẩm của ông đều được thể hiện với những đường nét thanh lịch và những tư tưởng mới về nghệ thuật sơn mài. Tuy chưa được công nhận là Bảo vật Quốc gia nhưng tất cả các tác phẩm của ông dường như đã được ngầm coi là bảo vật và bị cấm đem khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Tác phẩm tranh sơn mài khổ lớn của danh họa Nguyễn Gia Trí trưng bày tại Bảo tàng Mỹ Thuật Việt Nam.

Tác phẩm Thiếu nữ trong vườn của danh họa Nguyễn Gia Trí. Ảnh Nguyễn Hương



Tô Ngọc Vân




Tô Ngọc Vân (1908 – 1954) được đánh giá là người có công đầu trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Ông tốt nghiệp khóa 2 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1954. Ngay từ khi còn theo học tại trường, ông đã dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu việc sự dụng chất liệu sơn dầu. Ông đã từng viết trong nhật ký những tâm sự về việc mơ ước xây dựng một nền hội họa Việt Nam có tính chất dân tộc, phản ứng lại sự xâm nhập của hội họa Pháp đang tràn lan tại thời điểm đó, để giành một vị trí cho nền mỹ thuật Việt Nam trên thế giới. Tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông là kiệt tác “Thiếu nữ bên hoa huệ” và “Hai thiếu nữ và em bé”. Tuy nhiên, đáng tiếc là kiệt tác “Thiếu nữ bên hoa huệ” giờ đang lưu lạc ở đâu không ai dám chắc. Còn “Hai thiếu nữ và em bé” đã chính thức được công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2013, hiện kiệt tác hội họa này đang được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Với tài năng và những đóng góp lớn, ông đã được bầu giữ chức vụ Hiệu trưởng trường Đại học Mỹ thuật Việt nam và là Hiệu trường đầu tiên của trường.



Kiệt tác Thiếu nữ bên hoa huệ hiện đang lưu lạc không ai biết chính xác tác phẩm này hiện đang được cá nhân hay tổ chức nào giữ.


Bảo vật Quốc gia "Hai thiếu nữ và em bé" hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam



Nguyễn Tường Lân




Nguyễn Tường Lân (1906 – 1946), trong bộ tứ thứ nhất của hội họa Việt Nam, danh họa Nguyễn Tường Lân là nhân vật được biết đến ít nhất. Ông ít được biết đến bởi tác phẩm của ông rất ít dù rằng thực tế ông sáng tác khá nhiều. Ông học khóa 04 trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Sau khi tốt nghiệp, ông mở xưởng vẽ tại Hà Nội. Ông thuần thục hầu hết các chất liệu từ sơn dầu, sơn mài, lụa cho tới khắc gỗ, bột màu…Ngay từ thập niên 1940, ông là một trong những họa sĩ tiên phong trong việc đưa các màu nguyên chất vào tác phẩm và sử dụng chúng một cách rất hài hòa kể cả trên chất liệu lụa. Mặc dù sáng tác được nhiều tác phẩm nhưng những tác phẩm của ông còn lại cho hậu thế chỉ đếm trên đầu ngón tay. Có lẽ cũng chính vì vậy mà hình ảnh mà chỗ đứng của ông trong bộ tứ khá mờ nhạt, mong manh dù rằng ông là một họa sĩ kỳ tài của Việt Nam.


Tác phẩm Đôi Bạn

Tác phẩm Hiện vẻ Hoa



Trần Văn Cẩn




Trần Văn Cẩn ( 1910 – 1994), cùng với Tô Ngọc Vân, danh họa Trần Văn Cẩn là họa sĩ có tác phẩm “Em Thúy” được công nhận là Bảo vật quốc gia. Ông tốt nghiệp khóa VI trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương cùng năm với danh họa Nguyễn Gia Trí. Ông đã từng giữ cương vị Tổng Thư ký Hội Mỹ Thuật Việt Nam, là người có công lớn trong việc xây dựng phong trào và xây dựng phương hướng của mỹ thuật Việt Nam. Năm 1954, ông được bầu thay thế danh họa Tô Ngọc Vân đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam và giữ cương vi này trong 15 năm (1954-1969). Không chỉ có tác phẩm “Em Thúy”, danh họa Trần Văn Cẩn còn có rất nhiều tác phẩm được đánh giá cao và được công chúng biết đến rộng rãi như: Gội đầu, Gánh lúa, Tát nước đồng chiêm, Bộ đội xây dựng cầu….



Bảo vật Quốc gia, tác phẩm "Em Thúy" hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Tác phẩm "Bộ đội xây dựng cầu" hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Ảnh Hương - Cinet.



Từ những năm 1960, thuật ngữ để nói về 2 bộ tứ của hội họa Việt Nam bắt đầu xuất hiện, mặc dù cũng không biết được chính xác nguồn gốc được bắt đầu từ đâu. “Bộ tứ” mà công chúng xếp hạng cho các họa sĩ thực chất cũng chỉ là do người ta yêu thích rồi tự “phong tước”, “phong hàm” chứ trên thực tế không có quyết định nào về việc xếp hạng hay ghi danh các danh họa này. Trải qua thời gian với những thay đổi về lịch sử và những biến động của xã hội, danh tiếng của “Bộ tứ” và sự yêu mến của công chúng dành cho họ vẫn không thuyên giảm. Điều này đã chỉ ra rằng, những giá trị thực sẽ là trường tồn. Những đóng góp của các danh họa và những sáng tạo của họ không chỉ giúp định hình mà còn định hướng cho sự phát triển của Hội họa Việt Nam từ những ngày đầu tiên còn non trẻ cho tới hôm nay và mai sau.


Nếu như các danh họa trong bộ tứ thứ nhất là những người tiên phong trong làng mỹ thuật Việt Nam thì các danh họa của bộ tứ thứ hai là những nhân vật có nhiều thành tựu và các tác phẩm quan trọng khi còn rất trẻ.

Bộ tứ thứ 2 mà của mỹ thuật Việt Nam gồm có danh họa Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm và Bùi Xuân Phái. Người đời thường gọi ngắn lại với tình cảm và sự tôn trọng là “nhất Sáng, nhì Liên, tam Nghiêm, tứ Phái”.

Bốn danh họa trong bộ tứ thứ 2 được biết đến bởi họ đã có những tác phẩm vô cùng quan trọng và những thành tựu rất đáng nể ngay khi còn rất trẻ. Tồn tại với thời gian đã hơn nửa thế kỷ thử thách, mỗi danh họa, mỗi con người đều có một cuộc đời dữ dội, một định mệnh của thiên tài. Trong bộ tứ 2 này đến nay chỉ còn có Nguyễn Tư Nghiêm, còn lại cả 3 người bạn của ông đã đều về với thiên cổ. Nguyễn Tư Nghiêm lừng danh với Điệu múa cổ; Thúy Kiều; Kim Trọng; Những con giáp…Bên cạnh đó, trong bộ tứ, danh họa Dương Bích Liên là cái tên đã có thời gian bị lung lay bởi những người khó tính. Không bởi họ chê tác phẩm của ông mà bởi số lượng tác phẩm ông để lại cho đời không đủ sức thuyết phục. Thậm chí có một cuốn sách của phương Tây khi viết về các danh họa Việt Nam đã gạt bỏ tên ông mà chỉ nêu tên 07 nhân vật còn lại. Mặc dù vậy, người đời vẫn không thể phủ nhận và chối bỏ sự đóng góp của ông. Các tác phẩm của ông có thể không nhiều về số lượng như giá trị mà nó để lại thì không thể đo đếm được. Bởi vậy mà dù đã từng có những ý khác nhau vậy nhưng vị trí của ông là không thể thay đổi và cũng không có thể lựa chọn ai xứng đáng hơn ông. -

Nguyễn Sáng




Nguyễn Sáng (1923-1988), là cái tên đầu tiên được nhắc đến trong danh sách bộ tứ thứ 2. Ông tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1942. Tranh của ông được thể hiện ở nhiều thể loại và thể loại nào cũng thành công, từ thể loại chiến tranh, chân dung cho đến các đề tài như phụ nữ, hoa, phong cảnh…Ông cũng là họa sĩ đa tài có thể sử dụng mọi chất liệu nhưng chất liệu mà ông ưa thích nhất chính là sơn mài. Ông đã từng làm cuộc cách tân đáng kể trong cách ứng dụng đưa sơn dầu và nhất là sơn mài vào các tác phẩm hội họa. Cùng với Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, ông được coi là cây đại thụ của sơn mài Việt Nam. Nếu như Nguyễn Gia Trí đưa sơn mài đến đỉnh cao của những cảnh thần tiên, thì Nguyễn Sáng đẩy sơn mài đến đỉnh cao với những hình ảnh rất đời thường, dung dị. Cũng chính ông là người bổ sung vào sơn mài những mảng màu như vàng, xanh, diệp lục để tạo thêm sự sinh động cho tác phẩm. Những tác phảm nổi tiếng của ông như: Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ; Hành quân đêm mưa; Tháp Phổ minh; Thiếu nữ bên hoa sen; Chọi trâu…

Hai trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam:
Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ (ảnh trên);

Chùa tháp Phổ Minh (ảnh dưới).




Dương Bích Liên




Dương Bích Liên (1924-1988), ông tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1945. Là người sống thầm lặng, ông đã chọn cách cống hiến lặng lẽ cho nghệ thuật. Có lẽ cũng vì lý do đó mà đã có những giai đoạn, người ta nghi ngờ vị trí của ông trong “tứ kiệt”. Mặc dù vậy, nếu nhìn vào cuộc đời và sự nghiệp của ông, người ta mới thấy hết được những hy sinh, những cống hiên quên cả bản thân mình mà ông đã dành cho hội họa Việt Nam. Dương Bích Liên là người họa sĩ cách mạng đầu tiên trong làng hội hoạ Việt Nam. Năm 1949, ông là một trong số rất ít họa sĩ đầu tiên được kết nạp Đảng tại vùng kháng chiến. Không chỉ tài ba, tâm huyết, danh họa Dương Bích Liên rất say mê vẽ, ngay cả trong những ngày chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ diễn ra ác liệt nhất, ông cũng không rời giá vẽ. Sự nghiệp hội hoạ của ông đã để lại khối tài sản quý của kho tàng Mỹ thuật Việt Nam dù rằng các tác phẩm của ông không nhiều về số lượng. Tuy sáng tác nhiều đề tài, nhưng có đến 2/3 trong số các tác phẩm của ông được vẽ về phụ nữ. Chẳng thế mà người trong giới hội họa thường nói “phố Phái, gái Liên”. Người phụ nữ trong các sáng tác của ông luôn được thể hiện dưới nét vẽ trìu mến, biểu cảm dung dị. Dù là người phụ nữ trung tuổi hay chân dung một thiếu nữ..đều được ông thể hiện một cách nhuần nhuyễn, siêu thoát và chân thực . Những tác phẩm đáng chú ý của ông có: Bác Hồ ở Chiến khu Việt Bắc; Mùa Lúa chín; Thiếu nữ và hoa cúc trắng; Thiếu phụ…


Một trong số ít những tác phẩm ông để lại:
Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc (ảnh trên);

Mùa lúa chín (ảnh dưới). Ảnh Hương-Cinet




Nguyễn Tư Nghiêm




Nguyễn Tư Nghiêm sinh năm 1922, tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1946. Ngay từ khi đang học năm thứ 3, ông đã gây chú ý trong giới hội họa với tác phẩm Người gác Văn Miếu, tác phẩm này đã dành được giải nhất tại Salon Unique năm 1944. Nếu như nói Dương Bích Liên lặng lẽ thì có lẽ ông chính là người bạn đồng hành trên con đường nghệ thuật lặng lẽ này. Suốt hơn nửa thế kỷ lao động, sáng tác, cống hiến cho nghệ thuật, ông không mấy khi xuất hiện ở những nơi chốn đông người, chẳng mấy khi tham gia các sự kiện kể cả trong lĩnh vực mỹ thuật, hội họa. Chẳng thế mà nói đến tên ông, người đời tưởng như ông đã là “người của muôn năm cũ”. Các tác phẩm của ông luôn được giới sưu tầm tìm kiếm, và tất nhiên được trả giá rất cao. Vậy nhưng ông không bán mà giành cả những tác phẩm đó cho người vợ - tình yêu duy nhất của đời ông sau hội họa. Không bán tranh để lấy tiền phục vụ nhu cầu cuộc sống, vì thế mà đến nay ông vẫn sống rất giản dị trong căn nhà trong ngõ tại Hà Nội. nay đã hơn 90 tuổi, ông vẫn dành từng ngày trong cuộc đời mình để vẽ tranh, để sáng tác. Các tác phẩm nổi tiếng của ông có thể kể đến như: Người gác Văn Miếu; Cổng làng Mông Phụ; Xuân Hồ Gươm; Điệu múa cổ; Kim Vân Kiều; Mười hai con giáp; Gióng…

Một số tác phẩm được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam như:
Gióng (ảnh trên);

Xuân Hồ Gươm (ảnh dưới).



Bùi Xuân Phái




Bùi Xuân Phái (1920-1988), ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1946 cùng năm với danh họa Nguyễn Tư Nghiêm. Nếu chỉ bàn về tính phổ cập thì có lẽ trong danh sách cả hai bộ tứ, Bùi Xuân Phái là nhân vật được biết đến nhiều nhất. Sở dĩ như vậy là bởi ông nổi tiếng với tranh Phố, một đề tài vô cùng gần gũi, thân thuộc với người Hà Nội. Bên cạnh đó, những tác phẩm của ông cũng được sử dụng để làm hình ảnh cho các bài hát, minh họa cho các bài viết về Hà Nội hay cho những gì thuộc về ký ức, về hoài niệm nhiều nhất… cõ lẽ vì vậy mà người ta biết nhiều đến tên ông. Tranh phố của Bùi Xuân Phái vừa cổ kính lại rất hiện thực, thể hiện rõ hồn cốt của phố cổ Hà Nội những thập niên 50, 60, 70. Các mảng màu trong tranh phố của ông thường có đường viền đậm nét, phố không những trở thành chính nó mà còn gần hơn với con người, từ bề mặt đến cảnh quan đều có chiều sâu bên trong. Không chỉ có những tác phẩm về phố cổ, ông còn sáng tác những đề tài khác như: chèo, chân dung, tĩnh vật…trên các chất liệu vải, giấy, bảng gỗ, thậm trí cả giấy báo cũ. Tuy nhiên những tác phẩm được yêu thích nhất của ông vẫn là đề tài về phố. Những tác phẩm nổi tiểng được nhắc đến nhiều nhất của ông như: Phố hàng Mắm; Trước giờ biểu diễn; Sông Đà; Đền Phất Lộc; Phố cổ Hà Nội…


Tác phẩm Phố hàng Mắm (ảnh trên);

Đền Phất Lộc (ảnh dưới).



Có thể nói, 8 danh họa trong danh sách 02 bộ tứ của hội họa Việt Nam đều là những huyền thoại được sinh ra trong thế kỷ 20. Dù được sinh ra khi đất nước đang chiến tranh, bom đạn nhưng tài năng và tinh thần của họ đã trở thành “bất tử’. Kể từ năm 1975 đến nay đã gần nữa thể kỷ, mỹ thuật Việt Nam chưa có thêm bất kỳ nhân vật nào thực sự kiệt xuất chứ đừng nói rằng chúng ta sẽ có bộ tứ thứ 3. Nhiều người cho rằng có lẽ khi cuộc sống yên bình hơn, hiện đại hơn với nhiều tiện nghi đầy đủ, khát vọng sáng tạo của người nghệ sĩ có chiều hướng giảm bớt. Vì lý do gì thì chưa biết, chỉ biết rằng hơn nửa thế kỷ trôi qua, “hai bộ tứ” của làng hội họa Việt Nam vẫn là những cái tên còn sống mãi trong lòng công chúng. Không chỉ dừng ở tầm vóc quốc gia, 08 danh họa đều là những huyền thoại mang tầm vóc quốc tế và là niềm tự hào của mỹ thuật, hội họa Việt Nam.



Theo Nguyễn Hương - Cinet.gov.vn


Nguồn: Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật thành phố Hồ Chí Minh > Tin tức > Tin xã hội > Hai bộ tứ của Hội họa Việt Nam - Phần 1 - + Phần 2



Phần 1
Phần 2


Ngoài ra còn có hai họa sĩ sáng giá, đáng tiếc lại không được đứng vào bộ tứ nào, đó là Lê Phổ và Nguyễn Phan Chánh.

Lê Phổ (sinh năm 1907) có sự nghiệp hội họa được thế giới biết đến như một biểu tượng của sự kết hợp Đông và Tây, các tác phẩm hội họa của Lê Phổ được chào đón trên thị trường nghệ thuật thế giới từ Paris đến NewYork, điều mà chưa có một họa sĩ Việt Nam nào đạt tới và thang giá tranh của Lê Phổ đến thời điểm này vẫn cao giá nhất trên thị trường mỹ thuật thế giới dành cho họa sĩ người Việt Nam. Chủ đề chính trong tranh Lê Phổ là hoa và phụ nữ đẹp mơ màng, quý phái; tranh được thể hiện bằng chất liệu lụa và sơn dầu. Các tác phẩm của ông được trưng bày ở bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Cận đại Paris, bảo tàng Oklahoma (Mỹ). Tác phẩm chính: “Thiếu nữ bên hoa lan”, “Tĩnh vật”…

Nguyễn Phan Chánh (1892 – 1984). Từ thời thơ ấu họa sĩ đã được rèn luyện trong nền nghệ thuật viết chữ (calligraphie). Ở tuổi 14, họa sĩ đã đi tới các chợ để bán những bức tranh cuộn đầu tiên của mình, và với chúng họa sĩ đã kiếm thêm được tiền cho gia đình nhiều hơn là bằng việc viết chữ. Đề tài của họa sĩ là con người, người nông dân của vùng châu thổ sông Hồng. Cô thôn nữ tắm cho con, một phụ nữ gách thóc, người con gái nghiêng mình xuống nước... từ chủ đề cho đến độ đậm giảm bớt trong gam màu của họa sĩ, tới các màu sắc kín đáo của những cô thôn nữ vùng châu thổ và ngay cả các cánh đồng lúa sau mùa gặt hái. Cho đến bây giờ, những bức tranh của ông: “Chơi ô ăn quan”, “Lên đồng”, “Em bé cho chim ăn”, “Rửa rau cầu ao”… vẫn còn tồn tại mãi với tên tuổi Nguyễn Phan Chánh.